Trang chủ  |  Sách  |  Vấn đáp  |  Download   |  Liên lạc  
 

Sách nhỏ

Ebooklet - Bản In - Download

Pháp Thiền Tại và Hiện


 

Một phương cách giúp thoát khỏi đau khổ
 nhanh chóng, đơn giản và hữu hiệu.
 
Mimi Khuc & Thanh-Trieu Nguyen



 

Phỏng dịch và rút ngắn từ quyển sách Pháp Thiền Tại và Hiện: A Quick and Effective Way to Overcome Suffering do Nhà Xuất Bản Here & Now Publishing phát hành., USA Copyright © 2004
Mimi Khuc & Thanh-Trieu Nguyen.
Trình bày bìa: Hiep Duc Truong
Dịch giả: Mặc Thanh Như
ISBN: 0-9763491-5-9

i

Pháp Thiền Tại và Hiện


 

Mục Lục

Lời nói đầu

iii

 

 

Chương I: Giới Thiệu Về Cái Trí

1

    Kẻ Đồng Lõa Của Đau Khổ: Cái Trí

2

    Sự Vận hành Của Cái Trí:

3

         Cái Trí Không Chính Xác

3

         Những Cái Nên Và Không Nên Của Cái Trí

4

         Quá Khứ Và Tương Lai Vô Tận

5

 

 

Chương II: Chìa Khóa Tại và Hiện

6

    Khái Niệm Căn Bản

6

    Cách Dùng Pháp Tại và Hiện

7

    Trải Nghiệm Tại và Hiện

8

    Cấp Một: Bước Vào Tĩnh Lặng

9

          Thiền Ngồi

9

          Thiền Ngủ

10

          Dấu Hiệu Tĩnh Lặng

10

          Hóa Giải Duyên Nghiệp

11

    Tính Chất Mới Lạ Của Pháp Thiền Tại và Hiện

11

 

 

Chương III: Thay Đổi Cách Nhìn

12

    Lải Nhải Trong Đầu

13

    “Phải” và “Nên”

13

    Muốn hay Cần?

14

    Trói Buộc của Dư Luận

14

   Quá Khứ và Tương Lai

14

    Phán Xét Về Tốt Xấu, Thiện Ác

15

    Hạnh Phúc và Đau Khổ

15

    Thay Đổi Người Khác

15

    Thay Đổi Vị Trí

15

    Tha Thứ

15

    Thương Hại - Tội Nghiệp Mình

15

    Tử Biệt - Sinh Ly

16

    Thước Đo Thành Công - Phước Họa

16

    Tôn Giáo Gốc

16

    Của Tôi Hay Hơn Của Anh

16

    Thế à!

17

    Sự Liên Hệ Con Người

17

    Tại Sao Chúng Ta Có Trong Đời?

17

    Yêu Thương Vô Điều Kiện

18

    Tình Yêu Và Nhu Cầu

18

    Kinh Qua “Vạn Vật Đồng Nhất Thể”

19

 

 

Tóm lược các chương: 5, 6, 7

20

CHƯƠNG VIII: Tóm Lược

21

 

ii

Pháp Thiền Tại và Hiện


 

Lời Nói Đầu

Chỉ vì có một số bạn bè cần giúp chữa trị mặt tinh thần lẫn thể xác, quyển sách nầy đã được khởi đầu bằng vài trang hướng dẩn một phương pháp tịnh tâm đơn giản. Sau đó, để giúp mọi người được an bình nội tại, hạnh phúc và an hòa, những trang nầy đã trở thành một tập sách nhỏ. Không bao lâu sau, tập sách nhỏ đó đã được quảng bá miễn phí và đồng thời quảng bá dưới dạng sách điện tử (e-book) trên mạng với năm thứ tiếng: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Hòa Lan và Việt Nam. Quyển sách lớn là một thành phẩm nới rộng ra từ tập sách nhỏ kia và là để đáp ứng yêu cầu của nhiều độc giả cần hiểu rõ ràng hơn một số lãnh vực của cách tập pháp thiền nầy. Nội dung sách lớn có một số thông tin mới nên chúng tôi đã rút từ đó để soạn lại tập sách bỏ túi nầy và sẽ dịch sang nhiều thứ tiếng, bạn có thể truy cập (download) miễn phí.

Quyển sách lớn gồm tám chương; 4 chương chúng tôi đã đưa vào quyển nhỏ nầy, đồng thời có ghi chú sơ về bốn chương kia.

Hầu phục vụ đại chúng, chúng tôi chỉ dùng những chữ và ý tưởng về thiền định thật đơn giản để có thể đến được với người mới tập thiền ở nhiều nơi. Chúng tôi sẽ không bàn đến những cái nhìn hoặc trường phái tư tưởng của tôn giáo nào cả. Trong toàn bộ quyển sách nầy, nếu có chỗ nào so sánh hoặc định giá thì hoàn toàn dựa trên một ưu điểm là sự hữu hiệu của một phương pháp trong việc giúp giải thoát khỏi phiền não.

Vài đìều nên để ý khi đọc sách nầy: vì sách phối hợp tư tưởng Đông và Tây nên đôi khi đòi hỏi những độc giả đang chỉ theo tinh thần thuần túy Đông hoặc Tây cần phải cởi mở để đọc những khái niệm mới hoặc khác biệt. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là bạn hãy đọc với một tấm lòng cởi mở và một cái trí yên tỉnh—nghĩa là ta không đáp ứng nhu cầu của cái trí đang cần phân tích, tranh cãi, phê bình hay so sánh với những định kiến sẵn có. Và xin hãy đọc chậm rãi. Cái thực chất của tập sách nầy không phải chỉ chứa đựng trong những chữ được viết ra thôi mà còn chứa cả trong sự thinh lặng phía sau những ngữ nghĩa đó. Khi đọc tập sách nầy, ngoài việc trí ta thu thập kiến thức, tâm ta sẽ còn tìm được một số minh triết nào đó.

Chúc bạn đọc sách nầy một cách thích thú và an vui!

Back to Contents

iii

Pháp Thiền Tại và Hiện


 

 CHƯƠNG MỘT

Giới Thiệu Về Cái Trí

Mẩu đối thoại dưới đây xảy ra trong văn phòng cố vấn tâm lý giữa người cố vấn và một phụ nữ trẻ khoảng hơn 30 tuổi.

- Người cố vấn: Chào cô, tôi có thể giúp gì cho cô không?

- Người phụ nữ: Mọi việc trong đời tôi đều chẳng ra gì. Tôi cần được giúp đỡ. Tôi cần một việc làm vững chắc. Tôi cũng cần một chỗ ở tốt hơn vì hiện nay tôi sống trong một phòng trọ ở tầng hầm của nhà người ta. Tôi muốn mọi người trong gia đình tôi thương tôi. Còn chồng tôi thì đã bỏ tôi. Tôi cần có một người đàn ông đàng hoàng… một người chồng tốt… Còn chiếc xe của tôi nữa, nó vẫn cứ hư hoài...

- Người cố vấn: Những điều cô vừa nói là cô cần, tôi thấy cũng không có gì quá đáng. Tôi nghĩ rằng ai trong chúng ta cũng muốn được như vậy… Nhưng cô có quen hay biết người nào có tất cả những thứ đó không?

- Người phụ nữ: Có chứ. Có một vài người bạn.

- Người cố vấn: Thế cô có thấy họ hạnh phúc không?

- Người phụ nữ: …Ơ.. ơ.. Chắc là không hẳn đâu.

- Người cố vấn: Vậy cô có nghĩ rằng nếu như cô có đầy đủ những thứ đó, cô sẽ cảm thấy hạnh phúc vĩnh viễn không?

- Người phụ nữ: Có thể chứ….nhưng … mà chắc là không … Chắc là không hạnh phúc mãi đâu…

- Người cố vấn: Nếu như cô không phiền, tôi xin phép nói ra quan điểm của cá nhân tôi. Tôi có thể sai nhưng cô cứ nghe thử xem. Tôi nghĩ rằng chúng ta xuất phát từ một nơi mà luôn được bao trùm bằng tình thương và sự an bình tuyệt đối. Có lẽ vì bị tách rời khỏi nơi ấy nên mình luôn cảm thấy có nhu cầu và thấy thiếu thốn triền miên. Để đối phó với sự thiếu thốn, mình bám víu vào tình thương của người thân như cha mẹ, người bạn đời, con cái, anh chị em, bạn bè … Cảm giác thiếu thốn cứ mãi đeo đẳng nên mình cố lắp đầy những khoảng trống ấy bằng tiền tài, công danh, sự nghiệp… Mỗi thứ đó đều có hiệu lực nhưng chỉ một ít lâu sau là cảm giác thiếu thốn lại xuất hiện … Tôi không có chiếc đũa thần để cho cô những gì cô muốn nhưng tôi có thể chỉ cho cô phương cách để lấp đi sự thiếu thốn đó. Một khi cái thiếu thốn kia trở nên đầy đủ, thì những thứ khác không thành vấn đề nữa. Mình có đạt được những thứ đó thì cũng tốt, không đạt cũng chẳng sao. Lúc ấy mình đã tìm được bình an và giảng hòa được với bản thân cũng như an bình với thế giới chung quanh rồi.

Khi chúng ta tách rời ra khỏi cái nơi đầy đủ tuyệt đối kia, chúng ta đã tạo nên một cái trí thứ phụ; một cái trí diễn đạt bằng chữ. Cái trí nguyên thủy thì vốn dĩ vô ngôn và âm thầm; mọi nhận thức đều không có sự diễn giải, phân tích, so sánh hay phán xét… Việc thế nào thì nó chỉ thấy NHƯ LÀ, ĐANG LÀ vậy thôi. Còn cái trí thứ phụ kia là cái trí mà tôi và cô hiện đang dùng. Nó lải nhải không ngừng về những thứ đang làm chúng ta đau khổ. Một khi mình học được cách làm dịu đi cái trí nầy thì chính mình có thể trở về với trạng thái của cái trí nguyên sơ kia. Chúng ta có thể siêu vượt được cái cảm giác thiếu thốn kia vĩnh viễn. Bạn có muốn học cách nầy không?

Back to Contents

-1-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Đồng Lõa Của Đau Khổ:Cái Trí

Theo văn hóa Phương Tây chữ “đau khổ” (suffering) thường là có dính líu đến những biến cố trầm trọng trong cuộc đời, những đau đớn và buồn bã. Do ảnh hưởng tư tưởng Ấn Độ giáo và Phật giáo, văn hóa Phương Đông thường nhìn sự “đau khổ” là nền tảng căn bản của cuộc đời - Đời là bể khổ. Định nghĩa trong sách nầy thì “đau khổ” nằm ở giữa hai quan điểm trên. Sự đau khổ – dĩ nhiên – là nói đến những cảm xúc như buồn phiền, đau đớn. Sự đau khổ cũng là nói đến tất cả những trạng thái cảm xúc nào dính líu đến sự không hạnh phúc. Theo như định nghĩa một cách đầy đủ như trên thì đau khổ sẽ mang những ý nghĩa sau đây:

  • Tất cả những cảm xúc nào KHÔNG PHẢI là hạnh phúc, là tình thương, là hoan hỉ. (Thí dụ như: tức giận, ganh tỵ, ghen ghét, buồn bã, sợ hãi, đau đớn, lo lắng, cay đắng, đau thương, tiếc thương, thù oán, căm ghét, khinh bỉ, cô đơn, v.v.)

  • Tất cả các trạng thái nào KHÔNG PHẢI là hòa bình, đầy đủ, hài hoà. (Thí dụ như: bạo lực, nhu cầu (neediness), hoang mang, hoảng loạn, bối rối hồi hộp, trốn chạy, chối bỏ, thiếu thốn , hụt hẫng, tuyệt vọng, lo sợ, trầm cảm, v.v.)

  • Tất cả hành động nào KHÔNG thân ái (kindness), không bao dung hay không từ bi. (Thí dụ như: nhu cầu kiểm soát và chủ động (controlling), phán xét, phê bình, chỉ trích, nhục mạ, tấn công, ngược đãi, than phiền, cằn nhằn, hạ nhục v.v…)

Với định nghĩa rộng rãi như trên thì rõ ràng hầu hết chúng ta ai cũng đều đau khổ ở mức độ không ít thì nhiều. Để giải quyết vấn nạn nầy, trước tiên chúng ta cần phải hỏi xem cái gì thật sự là tác nhân gây ra đau khổ? Sau đây là một số lý do mà chúng ta thường nói. Tôi không hạnh phúc là bởi:

  • Tôi không có được những gì tôi muốn hay tôi cần.

  • Có người làm điều không tốt với tôi.

  • Có người không làm cho tôi những việc mà đúng ra họ nên làm.

  • Việc xảy ra không đúng ý tôi muốn.

  • Tôi luôn sống trong sự sợ hãi, canh cánh là sẽ phải mất một người hay một vật nào đó.

  • Tôi thất bại trong mọi việc tôi làm.

  • Cuộc sống không có ý nghĩa gì cả.

Tất cả những tình huống cuộc đời trên đây đều gây đau khổ cho ta một cách có vẻ hợp lý hết. Tuy nhiên, cũng có những người vẫn vui vẻ, hạnh phúc mặc dầu họ cũng đang ở trong nhiều tình huống kể trên. Vậy cái khác biệt giữa họ và chúng ta là cái gì? Câu trả lời: “Cái trạng thái của cái trí.” Một cái trí thì im lặng, Tĩnh Lặng và một cái trí thì nói liên tục, thường là những lời than phiền. Vậy thì có khi nào bạn chợt ý thức rằng biết đâu bạn KHÔNG PHẢI là cái trí của bạn chăng? Khi bạn muốn yên bình và thanh tịnh, cái trí đó có chịu dừng sự nhằng nhò, ồn ào của nó lại không? Phải chăng hầu hết là nó phớt lờ đi ý muốn được yên tịnh của bạn?

Lần sau, khi một trong những ý niệm mà chúng tôi đã nêu trên xuất hiện, bạn hãy thử tách rời mình ra khỏi cái trí và bảo nó: “yên lặng!” Hy vọng rằng nó nghe lời, chịu yên lặng hoặc nghĩ sang chuyện khác. Nếu nó chịu nghe lời, bạn hãy thử xem chừng bao lâu thì nó sẽ len lén trở lại đề tài cũ. Nếu ai cũng điều khiển được cái trí tuân theo mệnh lệnh của mình mọi lúc, mọi nơi thì nó đã không còn nói liên miên những ý tưởng tạo nên phiền não. Sách nầy viết cho những ai chưa chủ trì được cái trí của mình.

Các ý niệm trong sách nầy dựa trên sự thức giác của hai chân lý dưới đây:
Thứ nhất, nguồn gốc của hầu hết mọi đau khổ, mọi phiền não là do sự rối loạn nơi bộ phận thiên phú rất đặc biệt và cao cấp của con người: cái trí.
Thứ hai, cái trí cũng chỉ là một trong những bộ phận của con người như tim, gan, mắt, mũi, v.v. Cái trí nầy không thể bị ngộ nhận là toàn thể cái ta được. Nghĩa là “ta” không phải là “cái trí” và “cái trí” không là “ta”. Vậy thì “Ta” cũng chắc chắn không phải là những phản ứng hay suy diễn đã đưa ta đến những cảm xúc u buồn, đau đớn hay giận dữ.

Quyển sách nầy sẽ hướng dẫn ta cách sửa được sự rối loạn trên và giúp ta phục hồi những chức năng cao cấp của cái trí như sáng tạo, phát minh và tỉnh thức. Khi đọc xong quyển sách nầy, có thể bạn sẽ hiểu biết được thêm về sự vận hành của cái trí và biết cách ứng phó với nó để bớt đi những phiền não và đau khổ cho bản thân.

Back to Contents

-2-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Sự Vận Hành Của Cái Trí
Cái Trí Không Chính Xác

Vấn đề tiên quyết của cái trí là sự thiếu chính xác của nó. Cái gọi là “kiến thức” của cái trí thường nầy quả thật “không chính xác”. Dưới đây là hai thí dụ gồm những kết luận thiếu chính xác của cái trí:

Thí dụ thứ nhất: khi mắt bạn nhìn thấy bạn gieo một hạt giống xuống đất, một thời gian ngắn sau, mắt lại thấy nơi đó mọc lên một cái cây, cái trí kết luận là “cây đó tôi trồng” và thậm chí còn đi xa hơn, quả quyết rằng “cây đó của tôi.” Nói thực tế chính xác thì mắt chỉ nhìn thấy hai việc: Một là tay bạn gieo hạt giống, hai là tại chỗ ấy có một cây mọc. Chỉ thấy biết vỏn vẹn hai điều trên, cái trí đã kết luận rằng hiện tượng thứ hai (cây) là kết quả của hiện tượng thứ nhất (gieo hạt giống).

Cái sai hoặc không chính xác ở đây là mắt không hề nhìn thấy nhiều yếu tố khác nữa đã tạo nên cái cây kia như: đất, nước, không khí, ánh nắng mặt trời, khoáng chất, phân bón v.v.

Nhưng ngược lại, nếu kết luận rằng “cái hạt giống là do tôi trồng và cũng nhờ đất, nước, mặt trời, v.v. mà cây mọc lên” thì cái kết luận của cái trí phàm nầy cũng vẫn không chính xác. Tại sao? Bởi vì mắt “thật sự” chỉ “thấy” việc gieo một hạt giống và thấy có một cái cây mọc lên mà thôi chứ có thấy gì khác đâu! Cái trí lấy kiến thức có sẵn từ “kho” trí nhớ (đất, nước, ánh sáng, v.v…), ráp vô với hiện tượng vừa thấy-biết (gieo hạt và một cây mọc lên) rồi đi đến một kết luận mà không hề hay biết rằng cái tiến trình nhìn đó không đúng ngay từ đầu.

Biết đâu cái cây đó là do một hột giống khác, do một người khác trồng, do một ngàn lẻ một lý do khác thì sao? Do đó, khi mắt nhìn thấy “A” rồi thấy tiếp theo là “B”, chưa chắc gì “B” là kết quả của “A”. Vì vậy, cái trí chính xác là cái trí chỉ thấy và biết “A” là “A”, “B” là “B”, không kết luận lung tung thêm.

Thí dụ thứ hai: Vợ chồng giao hợp, sau chín tháng sinh ra một “con người” nhỏ xíu. Cái trí kết luận rằng: con người đó tôi tạo nên, nó là con của tôi. Cái trí chỉ quan sát sự sinh sản mà đã kết luận về nguyên nhân của nó và luôn cả chủ quyền đối với đứa bé. Nó kết luận như vậy mặc dù không hề biết có còn những nhân duyên bí ẩn nào, cái lực nào đã phối hợp để đưa cái “sinh mệnh” kia vào cuộc đời nầy chăng?

Trong những thí dụ nầy, cho dù cái trí có kết luận khác đi chăng nữa thì cũng vẫn không chính xác vì cái trí luôn bị giới hạn trong cái “biết” của nó. Nó có thói quen diễn giải và lý luận trong những quan sát giới hạn, dùng những “kiến thức” cũ chứa trong ký ức để lắp vào các khoảng trống hiểu biết. Khi kiến thức không chính xác cũ cộng với quan sát giới hạn mới thì tạo thành kiến thức thiếu chính xác mới. Vòng lẩn quẩn cứ như thế tiếp diễn.

Cái trí chính xác phải là cái trí của Tĩnh Lặng, chỉ nhận thông tin mà không thêm bớt gì. Hoặc giả khi cần diễn giải hay suy luận thì cái trí ấy ở trong Tĩnh Lặng, đồng thời luôn ý thức rằng mình đang suy luận, diễn giải và cũng “ý thức” rằng cái kết luận của mình luôn có thể là không chính xác.

Nói tóm lại, cứ mỗi khi cái trí đi đến một “kết luận” nào, ta nên xét lại xem nó có dùng cái nhìn “chính xác” hay không. Cái nhìn như thế nào mới gọi là chính xác? Đó là cái nhìn hiện thực qua một tâm trí trong sự Tĩnh Lặng hoàn toàn. Nó diễn ra mà không xét đoán, phê phán, đề nghị hoặc diễn giải. Nó chỉ là những quan sát và nhận biết trong yên bình.

Back to Contents

-3-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Những Cái Nên Và Không Nên Của Cái Trí

Vấn đề sẽ trở thành nghiêm trọng hơn một khi “cái trí không chính xác” dựa trên những kiến thức sai lệch của nó mà phán xét. Những thí dụ dưới đây cho thấy cái trí đã vào tìm kiếm ở ngăn ký ức, rồi khư khư áp dụng những giá trị và quan niệm cũ nầy vào các quan sát mới. Khi thế giới chung quanh không tuân thủ theo, cái trí bị cảm thấy bực bội. Có thể nó sẽ lải nhải liên tục hoặc nó sẽ vật vã, phiền não vô cùng.

Cách đơn giản nhất khi chúng ta tạo phán đoán là dựa trên những quan sát căn bản qua các giác quan. Như đã nói phía trên, cái trí lấy dữ liệu từ thế giới bên ngoài qua các giác quan, rồi lắp ráp thông tin cũ vào, thường thì không đúng lắm. Một số thông tin cũ nầy bao gồm những quan niệm và giá trị có sẵn. Sau đây là cách mà cái trí hình thành các phán đoán:

~Thị giác: “Quan niệm của tôi là phải sống một cách ngăn nắp, thứ tự, sạch sẽ … Vì thế mắt tôi muốn luôn luôn nhìn thấy mọi thứ được sắp xếp thứ tự, ngăn nắp, chỗ nào cũng sạch sẽ… Tôi cảm thấy rất khó chịu khi phải sống chung với những người có tính bê bối, không gọn gàng… Họ nên sống cuộc đời họ sạch sẽ, khỏe mạnh hơn.”

~Thính giác: Lỗ tai tôi không thích nghe những tiếng động gây ồn ào một cách vô ý thức. Tôi rất bực mình khi người khác đóng cửa mạnh, lê giày dép lẹp xẹp, rửa chén khua lẻng kẻng, nói to khi dùng phone di động, hay nói ồn ào khi xem phim trong rạp.”

~Vị giác: “Tôi ăn uống khá kén chọn. Không hợp khẩu vị thì thà nhịn đói chứ không ăn. Lên bữa ăn mà thực phẩm dở, không thơm ngon, tôi cảm thấy rất bực mình.”

Cái trí của chúng ta còn có khả năng làm những phán đoán phức tạp và tinh vi hơn dựa trên những quan sát của nó. Cái trí nắm giữ và dùng một số định kiến để làm méo mó những thông tin từ ngoài vào. Các định kiến thường là về sự liên hệ, giá trị, vai trò và bản thân.

~Giá Trị: “Nếu mặc cái áo nầy ra đường, người ta sẽ cười tôi (nhà quê, nghèo, già v.v…) hay người ta sẽ khen tôi (sang trọng, đẹp, hợp thời trang v.v…) Tôi nhìn người kia ăn mặc, đi loại xe nào, dáng dấp ra sao v.v.) là tôi biết liền họ thuộc type nào, tầng lớp nào v.v…” Đây là cái trí định nghĩa một số giá trị qua cái nhìn bên ngoài và rất quan tâm đến sự khen, chê của người khác. Nó sẽ phiền não khi không có điều kiện trang điểm phía bên ngoài theo đúng ý cho bản thân hay cho người trong gia đình.

~Định Danh Về Cái Ta (Identity): “Tôi mất việc làm và tất cả tiền bạc. Tôi là con người hoàn toàn thất bại”. Cách suy nghĩ sai lầm trên đây của cái trí làm chúng ta tưởng rằng chúng ta là tác nhân trực tiếp và duy nhất tạo ra mọi hiện tượng và sự vật biểu hiệu của thành công hay thất bại trong đời mình. Điều cực kỳ quan trọng là làm sao để cái trí nhận ra và hiểu rằng chúng ta chỉ tham gia và không hề có khả năng thật sự tạo ra trọn vẹn một kết quả nào cả. Thí dụ, thay vì cái trí thấy rằng “cái cơ nghiệp mà tôi đã tạo ra” hay “cái cơ nghiệp mà tôi đã làm mất (tiêu tan)”, thì cái trí khi nhìn một cơ nghiệp thì chỉ nên thấy đơn thuần là một “cơ nghiệp” mà thôi. Cái trí không nên thấy “mình” là cơ nghiệp, hay cơ nghiệp là “mình”. Cách nhìn đúng đắn nầy sẽ giúp cho chúng ta vượt qua những đau khổ có liên hệ đến thành công hay thất bại, được còn hay mất mát, vinh quang hay nhục nhã… Và cách nhìn nầy cũng có thể giải phóng chúng ta ra khỏi ảo tưởng thường trói chặt ta là: “Tôi luôn luôn là người kiểm soát và làm chủ mọi sự việc trong đời tôi” hoặc “tôi là những gì tôi sở hữu hoặc thành đạt được.”

~Các mối liên hệ và vai trò trong xã hội: “Họ là người thân của tôi ( cha, mẹ, anh, chị, em, bạn bè, chồng, vợ, con, cháu v.v…) mà khi tôi gặp khó khăn, cần được giúp đỡ, họ không giúp đỡ tôi.” Ở đây, cái trí định nghĩa sự liên hệ gia đình dính líu đến một số trách nhiệm nào đó, nếu ai không tuân thủ thì nó phiền não, trách móc.

“Con cái phải vâng lời, hiếu thảo với cha mẹ.” “Cha mẹ phải thương yêu đồng đều, chăm sóc, lo lắng cho con cái đến nơi, đến chốn.” Đối với cái trí, vai trò của con cái và cha mẹ thương gắn liền với một số trách nhiệm và đòi hỏi. Cái trí phán đoán, trách móc và phê bình nếu những thứ nầy không đáp ứng đầy đủ. Nếu đứa con không gọi điện thoại hay thăm viếng cha mẹ, cha mẹ sẽ buồn phiền. Còn người con thì mặc cảm thiếu bổn phận, tự ghét và trách mình đã không làm tròn bổn phận, không thỏa đáng được những đòi hỏi nầy. Sự đòi hỏi có thể đi đến những thái cực quá đáng mà người ta không hề hay biết. Thí dụ như một trường hợp có thật mà chúng tôi biết được: một bà mẹ buộc con gái mình phải trả hiếu bằng cách bán thân đem tiền về cho bà cờ bạc.

“Công việc của người đàn bà trong gia đình là chăm sóc nhà cửa, chồng, con. Công việc của người đàn ông là cung cấp tài chánh, vật chất, dạy con học.” Một lần nữa, cái trí gắn liền các đòi hỏi với một số vai trò trong xã hội. Cũng như mọi quan niệm khác, nếu vì lý do nào đó mà ai không đáp ứng được trọn vẹn các nhiệm vụ mà cái trí định nghĩa cho một vai trò thì cái trí sẽ khắc khoải, nhắc nhở, than phiền mãi vậy.”

Trục trặc lớn nhất đối với cái trí trong cuộc đời nầy thường là sự liên hệ giữa con người với nhau. Ta cần phải nhìn mọi người một cách chính xác. Thí dụ, ta nên nhìn người bạn đời như sau: “Đây là một con người mà trước khi gặp tôi, đã sống mấy chục năm trên trái đất nầy, có riêng đầy đủ những quan niệm không “chính xác”, cơ thể và tinh thần hoàn toàn biệt lập với tôi.” Có khi nào bạn chợt nhận ra là ngoài việc để làm người phối ngẫu của bạn, người ấy còn hiện diện trên đời nầy với những mục đích riêng hay khác không? Cái nhìn nầy sẽ giúp cái trí ta chấp nhận, tôn trọng mọi người chung quanh và không còn có nhu cầu buộc họ phải bỏ cái “không chính xác” của họ và tuân theo cái “không chính xác” của ta.

Back to Contents

-4-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Quá Khứ Và Tương Lai Vô Tận

Cái trí thường thường không cần dùng đến việc quán sát để làm vui vì nó luôn luôn có quá khứ và tương lai để bận tâm đến. Nguồn gốc lớn của đau khổ phát xuất từ một cái trí liên tục hồi tưởng và sống trở lại trong quá khứ, không ngừng nghỉ, lo lắng và hoang tưởng về tương lai.

Cái trí cứ lấy sự đau đớn, sự ân hận từ quá khứ để hồi tưởng và sống lại những cảm xúc ấy. Chúng ta thường hay bị mất cơ hội trải nghiệm ngay hiện tại chỉ vì cái trí cứ liên tục sống lại trong thời quá khứ như một cái máy hát đĩa cũ bị vấp. Chúng ta cũng sống một phần của thời tương lai bằng sự lo lắng, sự dự trù toan tính và mơ mộng hoang tưởng quá mức. Cái trí cứ lẩn quẩn đeo đuổi những sự kiện hoàn toàn thuộc về một thời khắc khác rồi lôi kéo, thôi thúc ta đem chúng ra sống trong thời điểm hiện tại.

  • Nói tóm lại, đây là cách mà qua sự vận hành rối loạn, cái trí tạo nên những đau khổ cho chúng ta:

  • Nó bận rộn lặp đi lặp lại những phiền não từ quá khứ.

  • Nó đắm chìm trong lo lắng, sợ hãi, và lẩn quẩn mơ tưởng việc tương lai.

  • Nó khắc khoải, vật vã trong việc ứng dụng một cách cứng nhắc, bất kể lý lẽ, các quan niệm, nhân sinh quan mà xã hội loài người đã đặt ra.

  • Nó tích cực phán đoán, phân tích, nhục mạ, cãi vã, xây dựng các hình ảnh và cảm xúc của bạo động, oán hờn, thù ghét, ganh tị, v.v…

  • Nó cũng là tác nhân mang nhiều bịnh hoạn và đau đớn cho cơ thể vì sự miên man tai hại kia cứ liên tục chuyển sự nhiễu loạn của tư tưởng đến các tế bào.

Khi một người lẩm bẩm nói một mình suốt ngày thì ta cho là bịnh tâm thần. Còn bản thân ta và tất cả mọi người còn lại thì cũng nói suốt ngày đêm, không ngừng nghỉ, khác chăng là ta nói âm thầm trong đầu, không phát thành lời mà thôi. Đây là một căn bịnh trầm kha nhưng vì mọi người ai cũng bị mắc phải bịnh nầy nên tưởng rằng đây là một trạng thái “bình thường”. Điều nầy có nghĩa rằng thay vì ta là người chủ điều khiển cái công cụ “trí” kia thì trong thực tế, cái trí miên man đó đang chủ động và điều khiển ta. Nó thúc đẩy từng ý tưởng, lời nói, việc làm, cảm xúc mà ta tưởng rằng ta làm, ta muốn, ta đau khổ. Ngày nào chúng ta chưa làm được việc TẮT cái trí nầy khi cần tắt, thì chúng ta vẫn chưa thoát khỏi đau khổ.

Mục tiêu ở đây không phải là bỏ quên quá khứ hay là không dự tính tương lai. Cũng không phải là không có ý niệm hay quan điểm. Cái vấn đề đặt ra đây là tiến trình (processes) suy nghĩ đưa đến những tình trạng như đã nêu ở trên, nó xảy ra một cách tự động và theo thói quen. Khi chúng ta nói rằng chúng ta muốn vặn tắt cái trí là chúng ta muốn lấy lại sự chủ động đối với tiến trình đó. Chúng ta muốn vặn tắt cái công tắc tự động. Nghĩa là mục tiêu của chúng ta là ta phải có khả năng chọn lựa và áp dụng – chúng ta sẽ chọn lựa khi nào nên áp dụng một quan niệm hay một định kiến, khi nào nên hồi tưởng việc quá khứ hoặc lúc nào nên dùng những hình ảnh, những cảm xúc sẵn có bên trong.

Cái trí không phải là một tai họa cho nhân loại. Ngược lại – nó sẽ trở nên một bộ máy rất quý báu nếu mình biết cách dùng nó. Một khi chúng ta đã trở thành chủ nhân của cái trí, chúng ta có thể vun bồi cho nó những tính chất hay ho như sự sáng tạo và sự tỉnh giác (awareness).

Muốn vượt ra khỏi đau khổ cần phải có ba việc:

~ Hiểu biết về cái trí và những thói quen của nó

~ Một phương pháp để an hòa nó

~ Và quan trọng nhất là sự thức giác về bản thân cũng như về sự liên hệ giữa ta và mọi người.

*****

Chúng tôi đã giới thiệu về tiến trình của cái trí, chương kế tiếp sẽ giới thiệu với chúng ta một phương cách dùng để tu dưỡng cái thức giác cần thiết nói trên. Phương pháp nầy chỉ là một trong những vô số phương pháp thiền đang được phát triển hiện nay. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng đây là một phương pháp đơn giản, dễ dàng và rất ứng nghiệm để đạt tới sự Tĩnh Lặng và thức giác cần thiết. Chúng tôi hy vọng rằng nó sẽ rất hữu ích cho những ai còn chưa tìm được một phương tiện thích hợp nào cho việc tìm kiếm một hạnh phúc bền lâu.

Back to Contents

-5-

Pháp Thiền Tại và Hiện


*This chapter is an adapted version of the original chapter.*

 

CHƯƠNG HAI

Chìa Khóa: Thiền Tại và Hiện

C hìa khóa của chúng ta ở đây là một phương pháp đơn giản giúp ta tự giải phóng mình ra khỏi đau khổ: đó chính là cách “vặn tắt” được cái trí. Chìa khóa nầy đặc biệt dành cho những bạn biết rất ít về thiền. Phương pháp thiền có tên gọi là Tại và Hiện nầy không đòi hỏi phải ngồi khoanh chân hằng giờ hay làm điều gì khó khăn, cực nhọc, thâm cao. Thiến không chỉ dành riêng cho người “tu” mà thôi. Ai cũng có thể tập phương pháp nầy dễ dàng, mọi nơi, mọi lúc: ngồi trên ghế cũng được, tư thế thoải mái, hay ngay cả lúc đi, đứng, nằm hoặc làm việc.

Pháp Tại và Hiện cũng không đòi hỏi phải xa rời đời sống xã hội, vật chất bình thường, bỏ công ăn, việc làm hay bỏ gia đình để lên núi ngồi một mình năm nầy qua tháng nọ. Ngoài ra, nó không thuộc vào một tôn giáo nào. Ai cũng có thể dùng được cả.

Mục Đích Thiền

Thiền nói chung cũng đã có từ nhiều ngàn năm trước, kể từ khi con người biết im lặng từ lời nói đến tư tưởng. Sự im lặng nầy giúp phục hồi năng lượng cho cơ thể và giúp trí óc thật sự nghỉ ngơi một cách trọn vẹn.

Trong phạm vi của cuốn sách nầy, chúng ta đặt trọng tâm vào việc giải trừ đau khổ cho bản thân VÀ giúp mình không còn gây đau khổ cho người khác nữa. Sau khi thành công trong việc ứng phó với cái nguồn gốc thật của phiền não thì chúng ta sẽ thấy rằng hòa bình và hạnh phúc lâu bền, chân thật sẽ mãi ở với chúng ta vậy.

Khái Niệm Cơ Bản Tại và Hiện

Mục tiêu đầu tiên của thiền Tại và Hiện là làm cho cái trí nhiều loạn động nầy trở nên yên tĩnh. Bình thường khi ta muốn tập trung vào một việc gì thì cái trí ta sẽ là “người chỉ huy” hành động nầy. Thật vậy, trí của ta thường lãnh đạo và hướng dẫn hầu hết các hoạt động và suy tư hằng ngày. Nhiều phương pháp thiền khác dùng cái trí để dẫn dụ chính nó vào sự Tĩnh Lặng. Cũng có những phương pháp dùng cách “thức giác” là cái trí luôn ý thức được các giác quan, tư tưởng và các hành động như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, suy nghĩ, v.v.

Kỹ thuật pháp thiền Tại và Hiện hơi khác với các phương cách trên. Nó đặc biệt tránh không “vật lộn” với cái trí. Ở cấp thiền sơ khởi, cái trí nầy sẽ nằm ở vị trí chỉ định nhưng người hành thiền vẫn không theo dõi hay chăm chú gì đến nó cả. Cái trí và cơ thể được nghỉ ngơi thật sâu và vì thế trải nghiệm được niềm an bình và yên hàn sâu đậm. Khi tập khá hơn, những trạng thái nầy sẽ giải thoát cái trí ra khỏi những thói quen nói năng miên man của nó. Ở trình độ cao hơn, chính cái “Chân Ngã” cao cả (hay “chủ nhân ông”) sẽ chủ động mọi sinh hoạt và luôn “biết” có hoặc nối liền với sự “Tĩnh Lặng” hiện diện bên trong. Thêm vào đó, phương pháp nầy còn cho ta tiếp tục thực tập ngay cả trong giấc ngủ để ta có thể vào được tiềm thức của ta.

Tại và Hiện là gì ? “Tại” là “ngay tại đây” và “Hiện” là “ngay bây giờ”. Nó là kết quả của hai việc: giữ “Thân đâu, Ý đó” và sự vắng bặt của tư tưởng khi trong một trạng thái thức giác cao hơn. Đó là khi cái trí đứng yên, không tưởng nghĩ, không tìm về quá khứ và cũng không mơ đến tương lai, hay phân tích và đi đến những kết luận sai lệch. Trí và thân ghép liền với nhau làm Một, kết hợp cơ thể vật chất của ta làm Một với cái Tĩnh Lặng nội tại cố hữu; một trạng thái vượt không gian và thời gian. Nói một cách đơn giản, giữ được cái trí yên lặng khi không cần dùng nó thì mình đã được coi như có ưu thế hơn rất nhiều rồi. Còn nếu giữ được nó yên lặng luôn cả lúc đang dùng nó và lúc ngủ, mình đã đến được một tâm thức cao hơn, không còn đau khổ nữa. Với phương pháp Tại và Hiện nầy, chỉ trong vòng vài hôm là hầu hết mọi người đều cảm nhận ngay được sự cải thiện đáng kể về mặt cảm xúc và tâm thần. Bạn không cần phải tin tưởng trước vào phương pháp. Bạn chỉ cần thử một cách chân thật là có thể tự xác định được kết quả thôi.

Back to Contents

-6-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Cách Dùng Pháp Tại và Hiện

Tóm lại, sự phiền não nói chung được phát triển theo những cách như sau:

  • Từ quan niệm, cảm xúc và ứng xử cất giữ trong ký ức.

  • Từ sự diễn giải của cái trí qua các ghi nhận của giác quan.

  • Từ các tưởng nghĩ về những sự việc đã xảy ra trong quá khứ hoặc có khả năng xảy ra trong tương lai.

  • Từ các giá trị, niềm tin và đòi hỏi được cái trí áp đặt cho mình và người khác.

Đây là những phương cách chúng ta có thể áp dụng:

Để chấm dứt sự tự động dùng kiến thức cũ của cái trí, chúng ta có thể “hiện tại hóa” bằng pháp Tại và Hiện. Khi thấy mình bị “nhập vai” vào một sự kiện hay một cảm xúc có mang tì vết đau buồn từ ký ức, ta cần phải “hiện tại hoá” chúng để giải thoát thân, tâm, ý ra khỏi cảm xúc đau khổ. Dùng Tại và Hiện để vào Tĩnh Lặng, giữ trí trống không ít nhất là một phút. Sau đó, ở trong Tĩnh Lặng, quan sát lại sự kiện, cảm xúc ấy; nghĩa là tách mình đứng ra ngoài sự kiện, không “nhập vai”, đồng thời cũng không xa rời hiện tại và sự việc trải nghiệm hiện tại.

Chúng ta có thể dùng pháp Tại và Hiện để giảm thiểu sự gắn bó giữa trí và năm giác quan. Thí dụ, mắt vừa nhìn thấy một đoá hoa hồng thì trí đã vội vàng chạy về ký ức lấy ra hình ảnh và cảm xúc đau khổ liên hệ tới một đoá hoa hồng của ngày xưa … Chỉ cần hít một hơi thở đầy, thở ra chậm, vào trong Tĩnh Lặng và lắng nghe ở trạng thái nầy là sẽ giữ cái trí “lăng xăng” yên được ngay.

Để ngăn chặn cái trí sống trong quá khứ hoặc tương lai, chúng ta cần phải đối phó với cái lực kiểm soát của nó trong việc tưởng tượng. Cái trí có một khả năng rất đặc biệt; nó không cần nhờ vào các giác quan mà vẫn “thấy” được hình ảnh, “nghe” được âm thanh, thậm chí nó có thể tự tạo cảm giác, vị giác, khứu giác và kích thích các phản ứng của tinh thần và thể xác. Thí dụ, khi cái trí tưởng tượng một trái chanh đang được vắt vào miệng mình là các hạch nước miếng lập tức hoạt động. Tuy nhiên, cái khả năng rất đặc biệt nầy còn là con dao hai lưỡi, có thể mang đến cả buồn lẫn vui. Đành rằng khả năng tưởng tượng giúp rất nhiều cho sự sáng tạo, phát minh và nghệ thuật, nhưng nó cũng có thể phát họa ra bao nhiêu mơ ảo của quá khứ và tương lai, mang đến nhiều đau khổ cho chúng ta.

Khi cần thiết phải cắt đứt sự tưởng tượng vô bổ nào đó đang miên man, ta chỉ cần thở một hơi thật sâu rồi vào trong Tĩnh Lặng của Tại và Hiện là đương nhiên cái trí sẽ ngưng tiến trình tưởng tượng của nó ngay.

Để thay đổi các đòi hỏi và phán đoán của cái trí, chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm về những cái nhìn mới mẻ đối với sự việc của cuộc đời. Chương Ba gồm một số thí dụ về những cái nhìn mới có thể giúp chúng ta tu dưỡng thức giác và thay đổi thói quen của cái trí hay áp đặt quan niệm và đòi hỏi của nó lên chúng ta và mọi người chung quanh.

Back to Contents

-7-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Trải Nghiệm Tại và Hiện

Mục tiêu cuối cùng của pháp thiền nầy là bạn có khả năng luôn luôn giữ được trạng thái Tĩnh Lặng nội tại dù bạn đang ngồi, đứng, đi , thức hay ngủ. Tuy nhiên, lúc đầu, bạn cũng cần ngồi thiền mỗi ngày để tập đạt tới mức độ sâu khởi điểm của Tĩnh Lặng.

Phương pháp nầy nhằm giúp chúng ta tiến qua bốn giai đoạn:

Giai đoạn 1: trong lúc ngồi thiền, ta kinh nghiệm được sự chủ động làm gián đoạn dòng tư tưởng miên man, kinh nghiệm được sự Tĩnh Lặng, yên bình, nghỉ ngơi và sáng suốt của “trí”.

Giai đoạn 2: vào những lúc không ngồi thiền và đang sinh hoạt bình thường, chúng ta vẫn thường xuyên kinh nghiệm được sự hiện diện của Tĩnh Lặng một cách tự nhiên và cả do sự cố ý thiền một phút suốt trong ngày.

Giai đoạn 3: Đến giai đoạn nầy, cái trí bây giờ đã khá ngoan ngoãn, ít loạn động. Qua thực tập, ta đã có khả năng bình thản đối diện với hoàn cảnh thực tại, ý thức được sự thúc giục và thói quen của cái trí, và bước ra khỏi những rối loạn cảm xúc mà vẫ duy trì được Tĩnh Lặng suốt.

Giai đoạn 4: Đến giai đoạn 4 nầy thì ta và cái trí có thể hòa hợp một cách tự nhiên, không còn có sự đấu tranh, loạn động. Đây là lúc ta sống và hoạt động hằng ngày mà luôn luôn có một sự gắn bó âm thầm, nhẹ nhàng với sự Tĩnh Lặng bên trong. Cái trí bây giờ không còn tự động phân tích, phán đoán, phản ứng, hay lải nhải liên tục như trước kia nữa.

Người ta tin rằng hầu hết các vị thức giác sống thường hằng trong trạng thái Tĩnh Lặng nầy

Ghi Chú Cho Thiền Giả Của Các Pháp Môn Khác:

Thiền sinh đã có tập các pháp môn dùng hệ thống Luân Xa và các ngành dùng năng lượng: Vì mục đích của pháp thiền Tại và Hiện là sự Tĩnh Lặng và sự vắng bặt của “Ý” nên khi thiền sinh cần buông thả hết các bắp thịt ở vùng trán và mắt, đặc biệt nên tránh không tập trung ở Luân Xa Sáu (mắt thứ ba) khi thiền. Nếu bạn quen có những cảm giác của sự luân lưu năng lượng và độ rung trong cơ thể, hoặc “nhìn” thấy được nhiều điều mới lạ khi thiền, bạn cứ lờ đi vì tinh túy của pháp Tại và Hiện là sự Tĩnh Lặng đằng sau tất cả những thứ đó. Bạn nên giử cái trí yên tuyệt đối, không mong cầu gì hết, kể cả Tĩnh Lặng.

Thiền giả của các pháp thiền truyền thống: Nhiều pháp thiền khác nhấn mạnh việc luôn luôn tỉnh thức. Pháp Tại và Hiện có nét đặc thù là nhấn mạnh việc hoàn toàn buông thả, bất động thân-ý, kể cả không cố gắng tỉnh thức. Trạng thái lý tưởng trong khi tập phương pháp nầy là ở giữa hai trạng thái nửa ngủ và nửa thức (minh minh, yểu yểu).
 

Back to Contents

-8-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Cấp Một: Bước Vào Tĩnh Lặng

Ghi chú: Xin lưu ý rằng lý do duy nhất khi phân ra ba cấp là để tiện cho việc hướng dẫn và thực tập chứ không hề ngụ ý phân chia cao thấp hay phân chia mức độ thành đạt tâm linh gì cả. Bạn hãy bắt đầu với Cấp Một rồi sau khi thông thạo thì hẳn tập lên cấp kế tiếp. Tuy nhiên, bạn không nên cảm thấy áp lực phải tiến lên cấp khác vì nhiều người chỉ dùng Cấp Một hoặc Cấp Hai rất thoải mái và hữu hiệu mặc dù họ đã thành thạo cả ba cấp. Hãy tìm cho bạn cấp nào thoải mái là được.

Bài tập Cấp 1 đã hướng dẫn bạn căn bản cách dừng “Ý”, cách vào sự Tĩnh Lặng, mở lòng từ bi, và cách tự chữa bịnh, chống lão hóa và giảm stress.

Bài tập Cấp 2 đã hướng dẫn cách vào được trạng thái Tĩnh Lặng sâu hơn, giữ được sự Tĩnh Lặng ngay trong các hoạt động thường nhật và cách hóa giải cảm xúc. (Xem cuốn Thiền Tại và Hiện)

Bài tập Cấp 3 gồm một số cách tu tập, phát triển tâm linh bằng pháp thiền Tại và Hiện. (Xem cuốn Thiền Tại và Hiện lớn.)

Thiền Ngồi

Mặc dù ta gọi là “thiền ngồi”, hãy nhớ rằng pháp thiền nầy được dùng ở bất cứ lúc nào, nơi nào, và bất cứ tư thế nào, càng thoải mái và thư giãn càng tốt.
Bước một: Hít 1 hơi (bằng mũi) thật sâu, chậm; khi thở ra (bằng miệng), ta cảm tưởng như có một làn sóng chảy dài từ đầu xuống chân giúp toàn bộ thân thể thư giãn, buông thõng hết các bắp thịt trong người. Mắt mở lờ mờ hay nhắm nhưng đừng chăm chú vào điểm nào cả.

Bước hai: Thầm nhủ với “Ý” là “Thân ở đây nầy”, “biết” rằng cái “Ý” của ta đã đến tại vị trí quả tim. Thư giãn và buông thả trí, không nghĩ điều gì, mắt không tập trung. Đặc biệt, thả hết các bắp thịt chung quanh mắt, trán cho dù nhắm hay mở mắt. Thỉnh thoảng mơ hồ biết rằng “Ý” vẫn ở chỗ tim.

Khi thấy “Ý” bỏ đi lang thang hay suy nghĩ thì nhẹ nhàng nhắc lại “Thân ở đây nầy”, đưa nó trở về an định ở vị trí cũ, rồi lại tiếp tục buông thả hết toàn thân - trí ngay.

Để yên như vậy trong trạng thái không suy nghĩ, không tập trung ít nhất là một phút, lâu nhất là 30 phút. (Mới tập thiền thì không nên thiền lâu hơn 30 phút. Sau chừng khoảng một tháng thì bạn có thể thiền lâu hơn nếu thấy thoải mái.)
Bước ba: Để xả thiền ngồi, từ từ hít một hơi thở sâu. Thở ra chậm, mở mắt và nhìn rõ lại bình thường, vươn vai nếu cần.

Nếu muốn chiêm nghiệm vấn đề gì hay phát triển trí tuệ thì sau khi mắt nhìn rõ lại, giữ nguyên trạng thái Tĩnh Lặng đang có nhưng trí thì đã tỉnh thức hoàn toàn. Ta âm thầm quan sát và chiêm nghiệm các tư tưởng xuất hiện mà không phân tích hay suy luận gì cả. Thời gian bao lâu cũng được.
Thông thường, nếu chọn sự phát triển trí tuệ làm trọng tâm thiền thì nên có sự hướng dẫn trực tiếp của một bậc thầy đã thành đạt tâm linh về mặt trí tuệ. Nếu không, dễ bị lầm lẫn cái trí phàm là “Chân trí tuệ” rồi vô tình bị cái trí phàm đó gạt, ta sẽ lạc luôn trong đó.

Back to Contents

-9-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Thiền Ngủ

Với phương cách trên, trước tiên chúng ta vượt thoát đau khổ khi vào được Tĩnh Lặng lúc thiền ngồi. Kế tiếp, chúng ta mang sự Tĩnh Lặng nầy vào các sinh hoạt hằng ngày. Còn thiền ngủ, chúng ta có ý xử lý một phần khác của cái trí: tiềm thức của chúng ta. Để không còn đau khổ, ngay cả trong giấc mơ, ta hướng dẫn cả tiềm thức lẫn cái trí tư duy vào ẩn trú trong cõi Tĩnh Lặng suốt giấc ngủ. Như thế, chúng ta sẽ thức giấc mỗi ngày trong tươi mát và an bình với chính bản thân và thế giới của mình vì phương cách nầy giúp ngăn chặn cái trí tiếp tục những thói quen cũ trong đêm.

Phương thức thiền như sau: khi nào bạn cảm thấy thật buồn ngủ và sắp sửa rơi vào giấc ngủ, bảo thầm với cái trí tư duy và tiềm thức của mình: “Hãy ẩn trú vào cõi Tĩnh Lặng suốt thời gian ngủ nầy.” Xong bạn buông hết mọi tư tưởng và các cơ bắp và chìm vào một giấc ngủ bình yên.

Dấu Hiệu Tĩnh Lặng Khi Thiền

Người hành thiền trong sự Tĩnh Lặng sâu thường có những dấu hiệu sau đây: Cơ thể không lắc lư, nghiêng ngả, tay chân im lìm, đầu không gục gật, di động. Mặt người nầy trông có vẻ yên lành, cơ bắp không căng cứng. Hơi thở trở thành cực nhẹ. Khi ở trong Tĩnh Lặng, dù ngồi thiền lâu, tay chân và lưng cũng không đau nhức. Thêm và đấy, nhận thức về thời gian và không gian có thể hơi bị lệch. Thí dụ, có thể họ ước định thời gian ngồi thiền của mình không chính xác, hay họ hơi bị sai lệch về không gian chung quanh khi mở mắt ngay sau lúc thiền. Một điểm đặc trưng của Tĩnh Lặng nữa là thân thể cảm thấy tươi tỉnh và tinh thần an bình sau khi thiền.

Nếu muốn, bạn có thể dùng Pháp thiền Tại và Hiện thường xuyên trong ngày. Để hiệu quả hơn, đề nghị mỗi ngày thiền ngồi ít nhất một lần từ 10 đến 30 phút và ba lần ngắn 1 phút trong sinh hoạt thường nhật. Nếu cái trí bạn thuộc loại hiếu động, thường chạy xuôi ngược khắp không gian và thời gian, đề nghị thiền thường xuyên và lâu hơn. Rồi khi bạn sắp rơi vào giấc ngủ, dù ngủ trưa, tối, hay đêm thức giấc rồi ngủ lại, hãy áp dụng thiền ngủ của Tại và Hiện.
Nên nhớ rằng mục tiêu chính của chúng ta là sống trong hiện tại, luôn thức giác về các tiến trình của cái trí mình, luôn chủ động được tư tưởng, cảm xúc, hành động, các thực trạng và duy trì được Tĩnh Lặng và an nhiên trong mọi thăng trầm của cuộc đời. Vì thế, sau khi bạn đã tập được Tĩnh Lặng, cố gắng âm thầm duy trì một liên hệ thường xuyên với sự Tĩnh Lặng nầy suốt trong ngày. Một lần nữa, xin nhắc là thiền ngắn hạn và thường xuyên suốt trong ngày sẽ có lợi ích không ngờ được.

Tự Chữa Bịnh, Chống Lão Hóa & Giảm Stress

Tự Chữa Bịnh: Vài phút sau khi thiền bình thường, bảo cái trí nghỉ ngơi ở chổ nào đang có bịnh trên cơ thể rồi buông thõng hết tư tưởng, vào Tĩnh Lặng từ 1 đến 30 phút. (Nếu bịnh có tính cách toàn thân như hệ thống máu, thần kinh v.v., thì đặt trí ở trên đỉnh đầu.)

Chống Lão Hóa và Giảm Stress:
• Ngồi thiền Tại và Hiện ít nhất 15 phút.
• Thực hành 1 phút Tĩnh Lặng thường xuyên trong ngày để phòng ngừa việc tăng trưởng của stress.
• Mỗi lần sắp rơi vào giấc ngủ, thở một hơi sâu, chậm, buông thõng và bảo thầm với trí và tiềm thức vào an trú trong cõi Tĩnh Lặng suốt giấc ngủ.
Nhớ chụp vài tấm hình chân dung để dành xem cho biết hiệu quả trước và sau khi học thiền nầy.

Back to Contents

-10-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Hóa Giải Duyên Nghiệp Tiền Kiếp

Nhiều người cho rằng nguồn thông tin đau khổ, bịnh hoạn nầy chẳng phải chỉ đơn thuần là của cuộc đời hiện nay, mà có thể là do mang từ những quá khứ xa hơn gọi là “tiền kiếp”. Bạn nào cũng tin như vậy thì có lẽ phương pháp tiếp theo sẽ thích đáng với mục tiêu của bạn. Còn nếu bạn không tin có tiền kiếp thì bỏ qua phần nầy vậy.

Muốn hóa giải “quá khứ” của tiền kiếp, cần phải nghĩ rằng những đau khổ và phiền não như bịnh hoạn, các khắc khoải trong mối tương quan, liên hệ giữa con người với nhau v.v… là kết quả của những gì mình đã làm lỗi từ nhiều đời kiếp trước đây. Ta cần thầm xin lỗi những ai đã chịu đau khổ vì những việc mình đã vô tình hoặc cố ý gây ra.

Trong cuộc sống hằng ngày, đôi khi chúng ta gặp những người làm khổ mình, khó dễ mình một cách vô lý, (thí dụ như cứ kiếm cớ chửi mắng, gây gổ, làm tổn hao tiền tài, của cải của mình, v.v.). Mình nên cho rằng ở một quá khứ nào đó, chính mình đã làm tất cả những điều ấy đối với người đó. Đồng thời, ta hãy đặt mình vào vị trí của người đó để mở lòng mình ra và cảm thông được sự đau khổ khi xưa họ đã chịu, rồi trong “Tĩnh Lặng”, ta thật tâm sám hối và xin lỗi. Ngay sau đó, vào Tĩnh Lặng ít nhất 30 phút. Sự Tĩnh Lặng càng sâu và “Ý” càng vắng bặt thì hiệu quả càng cao.

Tính Chất Tại Và Hiện Mới Lạ

Pháp Tại và Hiện có một vài tính chất quan trọng so với các pháp thiền khác.

Không Đấu Tranh

Phương pháp nầy bắt đầu ờ chổ không đấu tranh với cái trí và kết thúc cự hoàn toàn không đấu tranh bên trong lẫn bên ngoài con người ta.

Tĩnh Lặng và Thức Giác

Theo phương pháp nầy, thức giác của ta được duy trì bằng Tĩnh Lặng và quán sát một cách an bình chứ không qua sự cảnh giác cao độ như những pháp khác. Tuy vậy, pháp Tại và Hiện vẫn hoàn toàn thích hợp với các pháp môn khác và với cả đời sống thế tục.

Thời Gian và Hiệu Quả

Nếu tập đúng theo cách hướng dẫn, chỉ cần vài ngày, có người chỉ cần vài phút, là đã có thể đạt được sự Tĩnh Lặng có tính chất đổi đời nầy. Chỉ cần vài tuần là thiền sinh có thể mang theo sự Tĩnh Lặng nầy vào đời sống xã-hội thường nhật. Đây là lượng thời gian rất ngắn so với những tháng hoặc năm mà những phương pháp khác đòi hỏi.

Đơn Giản

Pháp thiền Tại và Hiện đơn giản và dễ thực hành, không tốn nhiều thì giờ, không cần có học thức cao, không cần có điều kiện kinh tế, không cần phải có người hướng dẫn. Hướng dẫn cho người khác cũng rất dễ dàng. Người nào thực tập được rồi đều có thể hướng dẫn cho người khác trong chốc lát.

Hài Hòa

Phương pháp Tại và Hiện nầy còn có tính cách trung dung và bổ sung nên nó hài hòa với mọi đường lối tu học hoặc tôn giáo. Nó hài hòa cả với cuộc sống thế tục, không đạo giáo. Pháp thiền giúp cho ta sự sáng suốt ở cả trí não lẫn tâm linh, khiến chúng ta được tự do theo đuổi và nhiều khi còn giúp chúng ta thăng tiến trên con đường mà chúng ta đã chọn. Đạt được hạnh phúc lâu bền là một mục tiêu chung của con người. Nó không thuộc của riêng một hệ phái nào mà là thuộc về tất cả mọi người ở khắp mọi nơi.

Từ Bi và Hòa Bình Thế Giới

Chìa khóa Tại và Hiện không những mang đến sự an lạc nội tại mà còn giúp ta thăng hoa lòng từ bi và tình thương yêu. Ta không thể thực thi hòa bình thế giới trong khi chính bản thân ta không thể phát triển được lòng từ bi và sự an bình trong nội tâm ta.

Back to Contents

-11-

Pháp Thiền Tại và Hiện


 

CHƯƠNG BA

Thay Đổi Cách Nhìn

Trong Chương nầy, chúng tôi trình bày những cách nhìn mà chúng tôi cảm thấy có lợi ích cho việc làm vơi bớt đau khổ. Những mẩu chuyện nầy không có ngụ ý là những quy luật hay hướng dẫn gì cả. Mục tiêu chính của cuốn sách là giúp bạn tìm được những con đường dẫn đến hạnh phúc lâu bền. Bạn không nhất thiết cần phải thay đổi cách nhìn đời của bạn, trừ khi bạn cảm thấy sự thay đổi đó có ích cho bản thân mình. Chỉ vì chúng tôi và nhiều hành giả thấy những câu chuyện và ý kiến nầy hữu dụng cho mình nên muốn chia sẻ để bạn chọn ra những cái nào thấy hợp với bạn.

Hầu hết những ý kiến dưới đây là để ứng phó với cái trí, với các quan niệm và sự cả quyết áp đặt cách nhìn của nó lên người khác. Phương diện nầy của cái trí là phần trói buộc nhất gây nên bao nhiêu đau khổ qua hình thái tức giận, đau đớn, bực dọc, nổi nóng, tự cho là đúng đắn, v.v… Trong lúc trưởng thành, cái trí của chúng ta thu thập các quan niệm, cái nhìn và tín điều từ cha mẹ và mọi người lớn chung quanh ta. Những cái nhìn nầy bản chất không có hại: nhiều cái tốt đẹp, dạy ta đức độ, nhân ái, rộng rãi. Điều đã biến những quan điểm nầy thành có hại cho bản thân ta và người khác là cái trí cả quyết mọi người phải tin như nó tin và phải hành xử đàng hoàng như nó nghĩ.

Khi chúng ta ứng xử với con người, sự vật và tình huống, chúng ta hay gặp phải những điều trái ý, phật lòng. Trí chúng ta cảm thấy khó chịu vì ông kia phải đàng hoàng, bà nọ nên làm bà mẹ tốt hơn, con gái tôi phải lễ phép, con trai tôi đúng ra phải gọi điện thoại cho tôi… Khi va chạm với người khác và với sự việc, trí của ta lập tức phân tích và phán đoán, dùng toàn những quan niệm đã cất giấu cũ kỹ, có khi còn đòi hỏi người khác và tình huống chung quanh phải điều chỉnh sao cho vừa ý mình. Đúng ra ông ấy không được trễ, phải đúng giờ. Đúng ra hôm nay trời không có mưa. Giờ nầy đúng ra không bị kẹt xe như thế nầy. Những tư tưởng nầy chạy liên tục trong trí, bỏ lại đằng sau nó là những đau khổ triền miên.

Vì thế, bước đầu tiên của chúng ta là chấm dứt trong trí mình việc đòi hỏi người khác phải tuân thủ theo những quan điểm của cái trí mình, nhất là những điều mà ta và số đông mọi người cho rằng tốt và đúng. Trí của chúng ta cần phải hiểu rằng nếu mình có quyền có quan niệm thì người khác cũng có quyền có riêng quan niệm của họ, miễn sao không di hại đến cộng đồng và xã hội. Thay vì áp đặt quan niệm của mình lên người khác và lên tình huống cuộc đời, chúng ta chỉ nên áp dụng những quan niệm nầy cho duy nhất bản thân chúng ta mà thôi. Đây là bước khởi điểm cần thiết trong việc xây dựng hạnh phúc cho mình.

Bước thứ hai là lựa ra trong khối quan niệm (mà hiện giờ là chỉ để áp dụng cho chính bản thân ta thôi) xem cái nào còn trói buộc mặc dù mình đã không còn áp dụng lên người khác nữa nhưng vẫn còn trói buộc chính mình. Tìm ra những quan điểm có khả năng mang đến phiền não cho mình rồi quyết định thay đổi nó. Một khi mình đã nhận dạng ra chúng, mình có thể tập thay đổi nó bằng phương pháp Tại và Hiện (xin xem đoạn chữ nghiêng dưới đây).

Những cái nhìn được chọn trong phần nầy sẽ giúp bạn nhận ra những quan điểm bên trong bạn mà bạn muốn thay đổi. Một lần nữa, xin nhấn mạnh rằng những mẩu chuyện nầy chỉ được chọn lựa trên một lợi ích: đó là cái khả năng giải phóng chúng ta ra khỏi đau khổ. Vì vậy, chúng ta sẽ không bàn luận đến những cái nhìn nào còn trói buộc hay giới hạn chính chúng ta, kể cả những hệ thống giá trị thuần túy đã hình thành từ rất lâu đời. Chúng tôi cũng không khẳng định điều gì đúng hay sai, tốt hay xấu. Chúng tôi chỉ đưa ra những gì mà chúng tôi cảm thấy lợi lạc mà thôi.

Nếu muốn thay đổi cái nhìn đang có hoặc thu nhận cái nhìn mới, thực hành cách thiền Tại và Hiện sau đây: thầm lặp lại một lần ý nghĩa chính của cái nhìn mà mình muốn, rồi sau đó không nghĩ đến nữa và nhập thiền Tại và Hiện ngay, càng sâu, càng Tĩnh Lặng thì hiệu quả càng cao.

Back to Contents

-12-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Lải Nhải Trong Đầu

“Ngày nọ, mẹ tôi mắng tôi rất oan ức, tôi đau đớn và khóc. Sau đó, mỗi lần tôi kể lại cho người khác nghe, tôi cảm thấy đau đớn rồi khóc lần nữa. Thậm chí, khi không có ai bên cạnh để kể, tôi đã nhớ và “sống” lại cảnh tượng, lời nói, cảm xúc lúc mẹ tôi mắng, rồi tôi đau đớn và khóc như sự việc vừa mới xảy ra. Sau hai tuần, tôi đã đau khổ và khóc lóc tổng cộng được mười tám lần! Nếu tư tưởng trên theo tôi đến hết cuộc đời còn lại thì không biết sẽ còn bao nhiêu lần đau đớn và khóc lóc nữa. Trên thực tế thì trong quá khứ, mẹ tôi mắng tôi chỉ một lần mà thôi.”

*****

Lúc vợ chồng còn trẻ, chồng bà ấy có lăng nhăng tình cảm với một cô bạn, sau lỗi lầm đó thì ông ấy đã sửa đổi và trở thành một người chồng tốt, trung thành và thương yêu vợ hết mực. Tuy nhiên, bà cứ nhớ và nhắc lại chuyện cũ, rồi đau lòng, khóc lóc như vậy suốt… bốn mươi năm chung sống. Trí của bà không thể buông nổi những ký ức đau buồn kia, ngay cả sau khi ông mất đi, mỗi lần bà ra thăm mộ, trí nhớ tiếp tục nhắc lại chuyện cũ… Đến bây giờ, ký ức về chuyện ấy vẫn còn xuất hiện mỗi khi bà đến viếng mộ ông.

“Phải” Và “Nên”

Tuy rằng hai chữ “PHẢI” và “NÊN” nhiều lúc cần thiết để duy trì một tôn ti, trật tự hợp lý nào đó cho xã hội và cộng đồng, nhưng nếu trong trí ta bận rộn suốt ngày đêm với hai chữ nầy thì sao? Thí dụ: “Làm chồng PHẢI như thế nầy, làm con PHẢI… , đúng ra tôi PHẢI…, anh PHẢI …, họ PHẢI …, mình PHẢI …, Trời Đất PHẢI … như thế nọ…” “Đúng ra, anh NÊN…, tôi NÊN…, chị NÊN làm như vậy…”

******

“Trong một ngày, tôi cố ý đếm thử xem cái trí của tôi dùng chữ PHẢI và chữ NÊN nầy cho bản thân và cho người khác bao nhiêu lần. Tôi bỗng khám phá ra chính xác mức độ bản thân tôi còn trói buộc người khác cỡ nào. Tôi tự hỏi xem các quan niệm, nhân sinh quan dẫn tới hai chữ PHẢI và NÊN nầy có đúng là của mình không, hay là do người khác đã nhét vào đầu mình, rồi mình lại đem chúng áp đặt lên thế hệ hậu sinh? Việc nầy vô tình tạo những mắc xích tiếp tục trói buộc từ đời nầy sang đời khác. Mục tiêu chính là giải phóng khỏi sự đau khổ nên bất kỳ quan niệm nào còn trói buộc người khác và gây nên đau khổ thì tôi sẽ xét lại xem có nên tiếp tục dùng nó nữa hay không.”

*****

Một thiền sinh than phiền với thầy mình về một đồng môn: “Thưa sư phụ, sư huynh con cứ suốt ngày bảo con phải thế nầy, nên thế nọ. Con cảm thấy khó chịu và bực bội lắm. Con phải giải quyết như thế nào đây?”

Sư phụ nhẹ nhàng: “Con có để ý thấy trong lòng con cứ muốn cãi lại hoặc biện minh đối với sư huynh của con không? Phải biết rằng việc sư huynh con dùng chữ “PHẢI” và “NÊN” là một hình thức bạo động, nhất là khi có ngầm ý rằng con có điều gì đó sai quấy rồi,. Sư huynh con đang tấn công con, dù là trong vô thức. Việc đầu óc con có nhu cầu biện minh, chống đỡ thì cũng là một hình thức bạo động trong lòng. Cái trí của con đang tấn công và oán hận sư huynh con. Vì thế, trong lòng con chỉ có thể tìm được bình an khi con không còn cảm thấy cần phải biện minh, giải thích, cãi cọ hoặc thắc mắc nữa thôi.”

Back to Contents

-13-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Muốn Hay Cần?

“Khi tôi muốn một điều gì đó mà không được, hay tôi đòi hỏi nơi người khác phải làm hoặc không làm một điều gì đó mà không được thì lòng tôi bực bội, nổi cáu, thất vọng. Trí tôi than phiền liên miên những điều “bất toại ý” đó. Nếu bạn bị cùng trường hợp nầy, hãy tự hỏi như sau: “Tôi muốn hay tôi cần đây?” Nếu câu trả lời là cần, mình hỏi thêm: “Nếu không có thì liệu có chết không?” Nếu “chết” thì là cần, còn không chết thì là muốn. Có lẽ mình sẽ thoát ra khỏi đau khổ nếu ta chọn không thèm muốn chúng nữa.

Trói Buộc Của Dư Luận

“Thưa thầy, khi người khác nghĩ sai hoặc nghĩ không tốt về con, con rất đau khổ. Con phải làm sao?”

Sư phụ trả lời: “Trước hết, con phải hiểu ba việc:

1. Thứ nhất, tôn trọng quyền tự do phê bình của người khác và của bản thân mình, nhớ rằng hai cái tự do đó không hề liên quan với nhau.

2. Thứ hai, phải biết rằng khi phê bình, ai cũng phải dựa trên những hiểu biết, tiêu chuẩn, và nhân sinh quan sẵn có của riêng họ. Vì vậy, họ không có khả năng nghĩ khác hơn đâu.

3. Thứ ba, không cần thiết phải thay đổi ý của họ. Vì vậy, con không cần phải biện minh.”

Dừng một chốc, sư phụ cười nhẹ: “Khi nào con hiểu ba việc trên xong, rồi con phải tìm vào Tĩnh Lặng mới hóa giải được cảm xúc đau lòng kia. Biết tại sao không? Tại vì cái hiểu ban đầu là con hiểu bằng trí thôi, khi nào con hiểu được bằng tâm thì mới là thật sự hiểu.

Tuy nhiên, lời phê bình bên ngoài không trói buộc và làm khổ mình nhiều bằng sự tự kết tội khắc khe bên trong cái trí mình. Nó có thể đem những yếu kém hay sai quấy trong quá khư của mình ra để dằn vặt mình cả đời. Lấy đức từ bi mà nhìn, con sẽ thấy rằng trong môi trường và hoàn cảnh lúc đó, con không thể làm gì khác hơn được. Có từ bi với bản thân rồi, con mới có thể từ bi với người khác.”

Một vị sư phụ khác bàn thêm: “Tốt lắm! Nhưng hình như vẫn né tránh vấn đề chính: Chúng ta ĐAU ĐỚN vì chúng ta “muốn” người nào đó nghĩ khác về mình. Chính cái MUỐN nầy làm ta đau khổ, chứ không nhất thiết là bản thân của lời phê bình làm ta đau khổ. Và rồi con hãy tự hỏi - tại sao mình “muốn” điều đó? Tại sao mình phải “cần” cái ý tưởng nào đó của người kia? Và cái dính mắc của “muốn - cần” nầy có giúp cho con hiểu thêm điều gì về bản thân của con không?

Quá Khứ Và Tương Lai

“Ngày xưa, tôi sống trong tình cảnh rất nghèo đói. Chúng tôi thường xuyên không có thức ăn. Giờ thì cuộc sống khá dễ chịu và luôn có dư thực phẩm nhưng tôi vẫn luôn nhớ lại cái cảm giác và kinh sợ nó. Cho đến nay, khi ngồi trước một bữa ăn thịnh soạn bày ra trước mặt, tôi chợt nhớ lại lúc thiếu thức ăn rồi lo sợ rằng trong tương lai biết đâu có ngày bất ngờ sẽ bị đói trở lại … Những ý tưởng “biết đâu” cứ mãi miên man, cuối cùng bữa ăn nguội lạnh và tôi không còn nuốt vô nữa.”

*****

Tôi là một người bằng lòng hy sinh và bỏ quên tất ham muốn riêng để lo lắng, gầy dựng tương lai cho bản thân và gia đình. Tôi làm việc tận sức cho mục tiêu của mình. Giờ đã đạt đến cái “tương lai” đó, tôi nhìn lại và nuối tiếc khi thấy tuổi thơ của con cái đã qua rồi, tuổi thanh xuân của người bạn đời cũng đã mất, sức khoẻ của tôi không còn đủ để vui hưởng cuộc sống gia đình ấm cúng, nồng nhiệt… Những “hiện tại” mà tôi đã bỏ quên giờ đã trở thành quá khứ…”

******

Bà ấy lúc nào cũng đau buồn chuyện gì đó đã xảy ra hay không xảy ra trong quá khứ. Còn ông ấy thì không ngừng lo rầu những chuyện chưa xảy ra hoặc có khả năng xảy ra trong tương lai. Họ hình như bỏ quên việc sống cho hiện tại. Có lẽ bà ấy sẽ hết đau khổ nếu bà nhận thức ra rằng cho dù cái trí có muốn đến đâu đi nữa, bà cũng không thể trở về quá khứ để thay đổi được một điều gì cả. Còn ông ấy thì có lẽ cũng sẽ bớt phiền não nếu ông hiểu rằng đối với những gì có thể xảy ra hay không xảy ra trong tương lai, ông có lo âu hay không cũng chẳng hề ảnh hưởng hay thay đổi được gì. Lo rầu chỉ có hại cho chính bản thân người đang lo mà thôi.”

Back to Contents

-14-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Phán Xét Về Tốt Xấu, Thiện Ác

Có lẽ những nhận thức về tốt xấu cũng đều có lý do riêng của chúng - những lý do mà cái trí của ta không hiểu và không thể hiểu đầy đủ nổi. Biết được sự giới hạn của cái trí như thế, có lẽ chúng ta nên ngập ngừng khi sắp cho phép cái trí của mình phán xét một cách nhanh chóng, dễ dàng và thường xuyên.

*****

Phán xét là một thói quen của cái trí năng động hay áp đặt quan niệm, giá trị và tín điều lên bản thân và người khác. Mặc dù luân thường đạo lý quan trọng trong việc giữ trật tự xã hội, nhiều phán xét có khả năng là một hình thức bạo lực đang tấn công kẻ bị phán xét. Kẻ nầy cũng có khi là chính bản thân ta. Hễ còn khả năng phán xét người khác thì vẫn còn khả năng phán xét bản thân. Cả hai khả năng nầy đều là những hình thức trói buộc dẫn đến phiền não. Cái trí thật không hề phán xét – nó chỉ quan sát trong thinh lặng và bình an.

*****

Tôi thử sống một ngày không cho phép trí mình phán xét hay kết tội ai hết thì mới khám phá ra rằng cái trí tôi phán đoán và kết tội suốt ngày…”

Hạnh Phúc Và Đau Khổ

Một đệ tử hỏi sư phụ: “Tại sao mọi người trong đời tôi cứ gây đau khổ cho tôi, sao không ai mang đến cho tôi hạnh phúc cả?”

Vị sư phụ trả lời: “Không ai có khả năng gây đau khổ hay mang hạnh phúc cho mình cả. Chỉ có mình mới có khả năng đó cho chính bản thân mình mà thôi. Điều quan trọng không phải là những gì xảy đến với mình mà là mình phản ứng như thế nào đối với những điều xảy ra. Vậy thử quan sát lại cái trí của mình và xem nó phản ứng ra sao.”

Thay Đổi Người Khác

Một bà đến gặp bác sĩ tâm lý, muốn nhờ chỉ cách để thay đổi tính tình của người chồng.

Vị bác sĩ buồn bã trả lời: “Tiếc thật, tôi không có khả năng nầy. Nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng lập gia đình xong, chúng ta sẽ từ từ thay đổi người bạn đời của mình. Hình như tôi chưa hề gặp người nào thật sự có khả năng thay đổi một người khác. Ở đây tôi chỉ có thể hướng dẫn người ta tự thay đổi bản thân họ để tìm được hạnh phúc nội tại mà thôi.”
 

Thay Đổi Vị Trí

“Hôm qua xem TV tôi thấy một người tử tù đang chờ chết. Nghe nói người nầy đã phạm những tội rất ghê rợn. Khi nhìn sâu vào đôi mắt tê dại và thẫn thờ của ông ấy, tôi không khỏi thầm hỏi: nếu bây giờ tôi là ông ấy thì tôi cảm thấy ra sao?”

Tha Thứ

Một thiền sinh hỏi: “Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, vợ con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để hết oán hờn và thù ghét đây?”

Vị sư phụ đáp: “Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ.”

Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: “Con đã học được tha thứ cho họ sư phụ ạ. Cảm ơn sư phụ.”

Sư phụ đáp: “Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra thương yêu họ.”

Một tuần sau, người đệ tử trở lại, thành công một lần nữa. Nhưng sư phụ lại cho một hướng dẫn mới: “Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy.”

Người đệ tử trở lại, lần nầy tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Anh tuyên bố: “Con đã học được và ghi ơn hết mọi người đã cho con cơ hội học được sự tha thứ!”

Sư phụ đáp: “Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ.”

Thương Hại, Tội Nghiệp Mình

Trong tất cả mọi tư tưởng có khả năng gây cảm xúc đau lòng thì tư tưởng tự thương hại mình, tự tội nghiệp mình là có thể gây đau khổ mạnh nhất. Những loại tư tưởng sau đây, chính đáng hay không chính đáng, đều làm cho ta cảm thấy sống lại trong sự đau đớn: “Tôi thật là vô phước. Sao người đó có thể nói những lời tàn nhẫn như thế với tôi. Tại sao người kia không yêu thương tôi? Trời đất sao quá bất công với tôi! Mọi việc trong đời tôi đều sai lệch hết …”

Back to Contents

-15-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Tử Biệt, Sinh Ly

Người đến là do duyên mà đến, người đi là do hết duyên mà đi. Một trong những trải nghiệm đau đớn nhất là khi người thương của mình bỏ đi ra khỏi cuộc đời mình. Một điều đau nữa là người ta không đáp lại tình cảm của mình. Nhưng chúng ta phải nhận biết rằng sự hiện hữu của tình thương không tùy thuộc việc đối tượng có mặt bên cạnh ta hay không hoặc tình cảm người ấy đối với ta thế nào, mà cũng chẳng tùy thuộc vào thời gian hay không gian. Mình không hề yêu thương một người chỉ vì lý do họ ở gần bên cạnh hay vì họ thương mình. Vậy thì sự vắng mặt hay thiếu đáp ứng tình thương nơi họ sao có thể ngăn chặn ta yêu thương và kinh qua niềm hỷ lạc của nó? Niềm hỷ lạc của yêu thương trong ta không hề dính dấp gì đến niềm đau của chia ly. Chúng ta cảm giác cái đau chia ly là vì ta ngộ nhận giữa nhu cầu (cần) và tình yêu – ta không đau khổ vì yêu; ta đau khổ vì ta cần. Cái trí của ta tăng cường những nhu cầu và đòi hỏi nầy thay vì cho phép chúng ta được kinh nghiệm niềm hỷ lạc của yêu thương.

*****

Sợi dây liên hệ giữa con người thật ra không hề có sự chấm dứt. Nó chỉ thay đổi ở hình thức mà thôi. Sự liên hệ không xem như đã hết khi một người rời khỏi cuộc đời mình. Nó chỉ đổi từ “vợ chồng” ra thành “không vợ chồng”, hay “bạn thân” ra thành “không thân”. Con người vĩnh viễn có liên hệ với mọi người chung quanh. Chúng ta không “mất” ai cả - họ luôn hiện hữu. Điều mà làm ta đau khổ là cái trí đòi hỏi có một mối liên hệ nhất định nào đó. Nó áp dụng cả cho tử biệt – chúng ta muốn người đó “còn sống”, một trạng thể và một mối liên hệ nhất định nào đó với chúng ta. Thật ra, ta vẫn nằm trong mối liên hệ với người quá cố, nếu không qua tâm linh thì cũng qua những kỷ niệm và sự liên hệ với người ấy trong ký ức ta.

Thước Đo Thành Công

Chúng ta định nghĩa thế nào là thành công và thất bại? Khi ta làm việc miệt mài và đạt được giàu sang, gia đạo đề huề, độc lập, công danh sự nghiệp, chúng ta tự nhủ: “Tôi thành công - tôi là Thành Công.” Rồi khi ta mất hết những thứ nầy, ta nghĩ: “Tôi đã thất bại - tôi là Thất Bại.” Nhưng những món ta dùng làm thước đo thành công rất phù du, những thứ đến và đi trong một đời người. Vậy tại sao mình lại lấy cái “phù du” làm thước đo, làm cái tiêu chuẩn đo lường giá trị của mình, đo sự thành công hay thất bại, đo phước hay họa của đời người, rồi vật vã đau khổ vì cái thước đo ấy?”

Tôn Giáo Gốc

Hỏi:  “Tôi sinh ra và được nuôi lớn theo một tôn giáo nọ. Lớn lên, tôi cảm thấy có nhu cầu phát triển tâm linh và tìm kiếm xa hơn cái mà tôi nghĩ là giới hạn của đạo ấy. Gia đình tôi rất chống đối việc nầy. Cuối cùng tôi phải dọn ra riêng để giảm bớt áp lực cho mọi người. Tuy thân tôi đã vượt qua sự trói buộc kia nhưng tâm hồn tôi vẫn khắc khoải. Làm sao đây?”

Trả lời:  Đôi khi, chúng ta không thể làm gì để thay đổi những gì người khác tin. Tuy nhiên, ta có thể thay đổi cảm xúc và cảm nghĩ của chính ta. Ta dùng pháp Tại và Hiện để làm dịu đi những cảm xúc xung đột dằng co giữa lòng trung với gia đình và con đường tâm linh mới của mình. Hơn nữa, biết đâu việc bạn sinh ra và lớn lên trong một tôn giáo, một giáo phái chẳng phải là việc ngẫu nhiên hay vô ích đâu. Và rất có thể việc bạn đã được nuôi lớn trong một giáo lý nào đó cũng như việc bây giờ bạn chọn con đường khác hơn đều có lý do riêng của nó.

Của Tôi Hay Hơn Của Anh

Một số hành giả đang tranh cãi về chánh đạo và ngoại đạo của một số pháp thiền và những tín điều tâm linh, tôn giáo của họ. Ai cũng nhất quyết pháp của họ và tín giáo của họ là nhất và từ chối không chịu chấp nhận của người khác.

Sau cùng, có một người đứng lên hỏi: “Các bạn đạo, xin hỏi cái gì trên đời nầy không phải là tâm linh? Cái gì trên đời nầy không phải là một phần của một cái gì lớn hơn? Vũ Trụ hình thành trước cái mà chúng ta gọi là tôn giáo rất lâu. Vạn sự, kể cả tâm linh, đều hình thành vào đích điểm không gian và thời gian cần thíết cả. Chẳng có cái nào “thật” hơn cái nào – nếu có khác chăng thì là ở chỗ nó “thật” vào đúng lúc, đúng nơi và riêng cho một số người nào đó. Chắc là chúng ta sẽ không cãi cọ nếu chúng ta có thể nhìn xuyên sự kiện lịch sử về đạo giáo và thấy được chúng cũng chỉ là những hiển thị của các phương tiện khác nhau cho cùng một mục tiêu mà thôi.”

Back to Contents

-16-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Thế à!

TSau đây là một bài dịch tóm tắt câu chuyện về một vị thiền sư Nhật: Ngày nọ, một phụ nữ mang thai đi cùng gia đình cô đến ngôi chùa của một vị sư trang nghiêm. Người phụ nữ chỉ ông và đề quyết dối rằng ông ta chính là cha của bào thai trong bụng cô. Gia đình cô la mắng ông về những “tội lỗi” của ông. Vị thiền sư lắng nghe một cách nhẫn nại và trả lời: “Thế à!” Họ ra về để rồi trở lại mấy tháng sau với một hài nhi và bỏ nó lại cho ông nuôi. Một lần nữa, ông đáp: “Thế à!” rồi nhận đứa nhỏ. Vài năm sau, họ trở lại để xin lỗi ông về sự lầm lẫn của họ và để đem đứa bé về. Vị thiền sư một lần nữa điềm đạm đáp: “Thế à!” khi nhìn họ đem đứa bé đi.

Sự Liên Hệ Con Người

Một thiền sinh hỏi thầy: “Trong tu tập, cách ứng phó nào tốt nhất với những liên hệ của con người? Con có nên ẩn tu để tránh va chạm, tránh đối đãi hầu có thể ngăn ngừa việc tích lũy thêm duyên nghiệp mới?” Sư phụ trả lời: “Nếu con muốn như vậy thì dĩ nhiên cũng được. Nhưng không hiểu sao riêng thầy thì lại khác, thầy cứ cảm thấy như mình vẫn nợ nần ai đó một cái gì khi thầy làm bất cứ việc gì. Khi thầy ăn cơm, thầy cảm thấy mình nợ người nông dân sức lực của họ. Khi thầy bật đèn lên, thầy thấy mình nợ những người đang làm việc ở sở điện lực. Khi thầy giặt quần áo, thầy thấy mình nợ những người làm ở xưởng xà phòng. Nhưng mà đó là tại thầy như vậy thôi.”

Tại Sao Ta Có Trong Đời?

Các đoạn dưới đây cho thấy những quan điểm khác nhau về ý nghĩa của sự hiện hữu của ta trên đời và thế giới nầy. Một số ý tương tự nhau và có thể đi chung với nhau, còn một số thì đối ngược hẳn – tùy bạn chọn một ít nếu được và thấy hữu dụng cho bạn.

1. Niềm Tin Vào Vũ Trụ

Thoạt nhìn thì thấy cuộc đời nầy và vũ trụ nầy có vẻ hỗn loạn. Nhìn kỹ hơn, hình như sự hỗn loạn nầy biến động trong một trật tự, lớp lang nào đó. Đời sống một cá nhân cũng có vẻ như chệnh choạng, không định hướng, như bị lôi kéo nhưng khi nhận định kỹ hơn sẽ thấy nó có những sắp xếp tuyệt vời… Tôi nhận ra rằng có một quy luật tuần hoàn nào đó thông minh hơn cái trí thường của tôi và cái quy luật đó điều khiển nhịp nhàng mọi thăng trầm để âm thầm đưa tôi đến nơi mà tôi cần đến.

2. Nghiệp Quả

“Tin có nghiệp quả, một quy luật nhân và quả của vũ trụ, là thấy được rằng mọi liên hệ và sự việc trên đời đều là một phần của một chu trình lớn hơn. Nên khi có ai làm tổn thất tài chánh của tôi, thay vì đau khổ và vật vã, tôi cho là mình vừa trả xong một món nợ tiền kiếp, trong lòng rất vui mừng vì đã nhẹ đi một mối nợ cũ.”

3. Vai Trò Và Bài Học

“Tôi không tin có nghiệp quả nhưng lại tin rằng thế giới nầy là một sân khấu khổng lồ mà nơi đó mỗi con người vừa là diễn viên, vừa là soạn giả cho vai tuồng của chính mình. Khi sinh ra, mình tự chọn vai diễn và ta đã yêu cầu người khác diễn chung các vai liên hệ như cha, mẹ, vợ chồng, con cái, kẻ thù, người thương, v.v… Mục tiêu chính ở sân khấu nầy là để “kinh nghiệm” và để “tiến hóa tâm linh”; học sự tha thứ, lòng từ bi, tình thương vô điều kiện, học về sự trói buộc, tự do, đau khổ và hạnh phúc, v.v… Vì vậy, tôi chân tình cảm ơn hết mọi người, bất kể cái vai trò họ đã đóng là thương hay ghét, tốt hay xấu trong đời tôi. Đồng thời, tôi cũng tôn trọng những người giữ các vai thấp, bé hơn tôi như: làm con, cháu, học trò, hay em út, v.v… vì tôi hiểu rằng thật sự họ không hề thấp bé hơn tôi.”

Back to Contents

-17-

Pháp Thiền Tại và Hiện


4. Bài Học Gì Đây?

“Tôi tin rằng mọi việc xảy ra trong đời mình đều là những bài vở đã được sắp xếp để giúp mình tiến hoá về mặt tâm linh. Vì vậy, mỗi khi tôi đứng trước một biến cố, một sự việc bất như ý, thay vì để cho trí óc than Trời trách Đất, tôi tự hỏi: Tôi cần học gì trong sự việc này đây?”

*****

“Tôi tin rằng mọi kinh nghiệm đời đều là bài học – và bài học chánh là buông bỏ, nghĩa là hiểu được tính chất của ảo hóa và vô thường. Thí dụ: nếu tôi luôn quan tâm, lo lắng và phiền não nhiều về tiền bạc, nhất là khi tôi còn thấy chúng là những thứ chính yếu biểu tượng cho giá trị của bản thân tôi, thì bài học sẽ là sự thất bại, mất mát liên tục về tài chánh. Nếu tôi khổ sở, cưu mang, vật vã, trói buộc vào vấn đề tình cảm và sự liên hệ với thân bằng, quyến thuộc, nhất là khi tôi thấy chúng là một thứ định danh của tôi, thì bài học sẽ là những đổ vỡ tình cảm, mất mát người thân, v.v… Bài vở sẽ cứ tiếp diễn cho đến khi nào tôi hiểu được cái bản chất của lòng gắn bó với sự vật trong tôi. Một khi bài vở được học xong, tự nhiên sóng gió bên ngoài sẽ lặng xuống, bên trong tôi sẽ tìm được sự Tĩnh Lặng, an nhiên, tự tại. Nghĩa là trong lòng yên thì sự việc bên ngoài yên theo, cũng như bên ngoài tôi yên là vì tôi tìm được bình yên nội tại - sự liên hệ là một vòng tròn như thế.”

Yêu Thương Vô Điều Kiện

Yêu thương vô điều kiện là gì? Là yêu thương mà không có một điều kiện, một mong cầu hay một đòi hỏi nào cả. Thương một người hoàn hảo thì rất dễ. Còn người không hoàn hảo thì sao? Một người mẹ có thể cho rằng đứa con tật nguyền, khờ khạo của mình là một trừng phạt từ những quyền năng cao hơn. Nhưng biết đâu đứa trẻ đó lại là một ơn phước? Biết đâu nó đến là để dạy cho người mẹ một tình yêu thương vô điều kiện chân thật? Tình thương vô điều kiện là khi ta sẵn sàng trải lòng yêu thương một đứa con tật nguyền, ngờ nghệch, không biết nói lời cho mình vui, không làm cho ta hãnh diện bởi vì nó không có những thành đạt xã hội.

*****

Thế nào là yêu một người nam hay người nữ một cách vô điều kiện? Đó là khi ta yêu tất cả mọi xấu, tốt, hay, dở của người đó chứ không phải là mặc dù họ có những điểm xấu đó ta vẫn yêu họ – mà là ta yêu họ chính vì những điểm đó. Khi ta yêu vô điều kiện, ta có khả năng nhìn người đó đang sống trọn vẹn là chính họ mà ta không thấy người đó cần phải thay đổi bất cứ điều gì nơi họ cả. Thậm chí ta yêu mà không cần người ấy thuộc về mình, bất kể là người ấy có yêu mình lại hay không, hoặc bất kể người ấy có đang ở với mình, có mặt trong đời mình hay không.

Tình Yêu Và Nhu Cầu

Làm sao ta biết rằng ta đang yêu một người? Chúng ta thường hay nói “Tôi biết tôi yêu nàng vì tôi không thể sống thiếu nàng. Cô ấy mà bỏ tôi, tôi sẽ đau khổ ghê lắm.” Hoặc ta nói “Khi tôi không có bên anh ấy, tôi nhớ anh ấy lắm. Lúc nào tôi cũng muốn ở bên cạnh anh ấy.” Thế nhưng những điều nầy không hề nắm bắt được cái tinh túy của tình yêu vì tình yêu không hề gây đau khổ hay đau đớn. Điều gây ra đau đớn cho chúng ta, điều mà những câu nói trên thực sự diễn tả là cần, là nhu cầu. Chỉ có “cần” mới đòi hỏi, mong cầu. Chỉ có “cần” mới giới hạn và trói buộc. Và “cần” là sản phẩm của cái trí. Tình yêu không buộc người khác phải có một cách đối xử hay cảm xúc nào đó. Thậm chí, tình yêu không buộc gì cả. Tình yêu hân hoan và giải phóng – nó là sự tự do cho cả người đang yêu lẫn người được yêu. Tình yêu là sản phẩm của tâm.

Back to Contents

-18-

Pháp Thiền Tại và Hiện


“Vạn Vật Đồng Nhất Thể”

PNgười ta cứ nói đến việc “Đồng Nhất Thể” và “Tất cả chỉ là Một”. Nhiều người hỏi làm sao để kinh qua được điều nầy? Nhưng là con người, chúng ta không thể diễn tả “cái đó” bằng ngôn từ, chữ nghĩa chứ đừng nói chi đến việc có thể chỉ ai cách đạt đến điều nầy. Câu chuyện dưới đây là một cố gắng diễn tả một kinh nghiệm qua ngôn ngữ của cái trí – và là một lợt lạt, thiếu sót lớn so với sự trải nghiệm thật. Đây không phải là một công thức hoặc hướng dẫn. Người viết chỉ mong rằng câu chuyện nầy giúp được gì đó trên con đường dẫn bạn đến sự trải nghiệm tính chất đồng nhất thể của muôn loài vạn vật vậy.

Người Đàn Bà Và Em Bé

Phần đông người ta nói nàng là Đàn bà. Một ít người nói nàng là Em bé. Nàng nghĩ nàng là cả hai. “Họ” thường cùng nhau ra bờ biển chơi. Người đàn bà mơ màng nhìn xuống biển sâu, nhớ nhung về lục địa đã mất của nàng ở quá khứ xa xưa. Em bé xây một lâu đài bằng cát và cười khúc khích mỗi lần gió len lén đến và hôn phớt lên má nó. Thỉnh thoảng, gió hỏi nhỏ: “Ngươi là ai?” Em bé cười thành tiếng: “Ta là Ta, dĩ nhiên rồi, ngươi kỳ nhỉ!”

Một ngày nọ, người đàn bà chợt ngừng và thắc mắc nàng thật sự là ai. Người ta nói rằng trang phục không phải là mình. Nàng cởi bỏ hết trang phục ra. Họ nói rằng cái hình thể vật chất cũng không phải danh tánh thật của nàng. Thế nên nàng từ từ gỡ bỏ ra từng mảng của cơ thể nàng… Sau khi mọi mảng cơ thể vật chất rơi ra xong, các lớp không vật chất cũng rơi theo. Nàng ngạc nhiên khi cái còn lại chẳng có gì ngoài cái “Tĩnh Lặng Trống Không”, vô ngôn từ…

Em bé thích thú quá. Nó bắt đầu nhúc nhích và cảm thấy mình bành trướng loang dần, loang dần và loang dần ra… Em bé cựa mình lần nữa … và thấy mình loang nhập toàn cả nơi Sáng Tạo.

Có một điều gì rất khác lạ mà lại rất tự nhiên chỗ nầy. Khi lột bỏ đi lớp vỏ bên ngoài, mọi vật đều trở thành “Tĩnh Lặng Trống Không”, vô hình dáng và rỗng như bản thân nó. Thậm chí, các cái “Rỗng Lặng” đó đều là như nhau, dính lại thành Một. Hình như mọi thứ đều là một phần của nó hay chính nó ở trong mọi thứ, hoặc có lẽ là cả hai. Khi nó quên mất luôn chính nó, toàn thể của nơi Sáng Tạo chợt hiện hữu trở lại bên trong Khoảng Trống đó. Nó bây giờ là con kiến tí teo đang bị nghiền nát dưới chiếc giày của ai đó. Nó là đứa bé trai đang thả diều. Nó là vị đại sư đang thuyết giảng cho một đám đông. Nó là người cùi đầy khuyết tật với những vết loét đầy mủ đang được một vị nữ tu tầm thường chùi rửa và nó đồng thời cũng chính là vị nữ tu đó. Nó là người đàn ông đang giết một đứa bé trong rừng và nó cũng chính là người cha đang khóc lóc trên chiếc quan tài của đứa bé đó. Nó là người đàn ông đang chạm đến người đàn bà… chạm đến nàng rất sâu… rồi bỏ đi không một lời giải thích. Nó cũng chính là người đàn bà đó đang dõi mắt về phía chân trời vào lúc hoàng hôn trong ngàn năm kế tiếp, ngậm ngùi trong âm thầm, lặng lẽ cho sự mất mát một khoảnh khắc xa xưa nào đó. Nó là đứa con gái trẻ đang đứng ở góc đường kiếm khách và nó cũng là vị Ma-Sơ đang nguyện cầu sự cứu rỗi cho nhân loại… Nó là tất cả núi non, sông ngòi và nó cũng là hòn đá nhỏ, đang im lìm, vắng bặt trong thiền định hằng bao nhiêu thế kỷ tiếp nối nhau. Nó là tất cả những con người có khả năng thần thông rong chơi khắp bao nhiêu vũ trụ khác nhau, cả hữu hình lẫn vô hình… Và nó cũng chính là các cõi, các vũ trụ đó.

Các mảng thân thể bắt đầu tự gom lại thành một hình dạng… Rồi đến những lớp vô hình, kể cả mảnh màn che nầy nọ… Cái “Rỗng Lặng” vô dạng cũng gia nhập, rồi … lạ thay … người đàn bà – em bé xuất hiện lại như cũ! Nàng mặc vào một áo ngủ mỏng manh, đứng ngoài lan can, làm đàn bà. Với các vì sao lấp lánh làm chứng nhân còn đó, thân thể nàng run rẩy khi làn gió nào mơn trớn da thịt nàng … Khi nàng ôm trọn niềm đam mê của sức sống mãnh liệt kia, người nàng đang hòa nhập vào những vũ trụ đâu đây. Nàng cũng lại khoát lên y phục bình thường của người đàn bà – em bé. Trong Tĩnh Lặng và an nhiên, chợt thấy mình đang ở lại trong thế giới của những kẻ hữu tử và bất tử … nàng biết rằng mình đang thuộc về họ và ngược lại...

Người đàn bà mặc vào một lớp áo của vị thầy, giả vờ phân phát những minh triết cho một nhóm đệ tử mà nàng biết họ không phải ai khác mà là chính bản thân mình. Mặc dù có thể họ ý thức hoặc không ý thức việc nầy, nàng biết rằng họ không hề cần gì nơi nàng hay nơi ai khác cả. Những người có thần thông nhìn cái “Tĩnh Lặng” của nàng và nói họ thấy các Chư Tiên, Thần Nữ … Nàng cười thân thương … biết rằng họ chỉ thấy những phản ảnh của ước mong và nhu cầu của chính họ mà thôi. Họ là một phần của nàng mà, chẳng phải thế sao?

Rồi người đàn bà và em bé trở lại bờ biển. Người đàn bà lần nữa mơ màng nhìn xuống biển sâu; toàn thể vương quốc thủy tộc chợt bừng sống lên bên trong nàng. Em bé lại xây ngôi lâu đài bằng cát và cười khúc khích mỗi khi làn gió len lén đến và hôn phớt lên má nó. Và một lần nữa, gió hỏi nhỏ: “Ngươi là ai?” Vẫn cúi xuống tòa lâu đài cát không nhìn lên, em bé mỉm cười và thì thầm: “Ta là Ngươi.”

Back to Contents

-19-

Pháp Thiền Tại và Hiện


 

 

Các Chương Khác Trong Quyển Sách Lớn

Dưới đây là mô tả tóm tắt những chương khác trong quyển sách lớn:

Chương Bốn: Tự chữa bệnh bằng pháp Tại và Hiện. Phần nầy nói về cách tự chữa bịnh bằng pháp thiền Tại và Hiện. Với phương cách chữa trị nầy, bạn có thể thấy được sự giảm đau trong vòng vài phút. Mặc dù nó hữu hiệu như vậy, chúng tôi cũng biết rằng có những thiền giả, nhất là những thiền giả chỉ có mục tiêu giác ngộ, không thích dùng thiền để chữa bịnh. Tuy nhiên, pháp thiền nầy là vừa cho phần thể trí vừa cho phần thể xác nên nó có thể áp dụng cho riêng từng phần hoặc cả hai.

Chương Năm: Giảm căng thẳng tinh thần và làm chậm tiến trình lão hóa. Phần nầy dành cho những người chỉ muốn dùng pháp thiền Tại và Hiện để thư giãn hoặc làm chậm đi sự lão hóa của cơ thể.

Chương Sáu: phần vấn đáp cho người Đã có nhiều kinh nghiệm thiền. Phần nầy đề cập đến một số câu hỏi của các vị thiền giả và thiền sư từ vài tông phái thiền khác, đồng thời, trong tư thế so sánh, chương nầy bàn luận đến những khái niệm và phương pháp cao hơn.

Chương Bảy: câu hỏi và trả lời. Đây là phần vấn đáp với các đề tài về phương diện kỹ thuật của thiền, những khái niệm cao sâu hơn về cái trí, cách ứng dụng những cái nhìn mới, những gợi ý về vấn đề tu tập và tiến hóa của cá nhân. Vì đề tài rộng rãi nên có thể độc giả sẽ chỉ tìm thấy sự hữu dụng ở một phần nào, vào một thời điểm nào đó thôi.

Back to Contents

-20-

Pháp Thiền Tại và Hiện


 

CHƯƠNG TÁM

Tóm Lược

Đây là phần tóm lược những điểm chính của cuốn sách và thêm một vài bí quyết nhỏ cho việc thực tập.

  • Cái trí không phải là mình. Mình không phải là cái trí.

  • Các giác quan nhận và đưa thông tin về trí, cái trí “nhận biết”, rồi diễn giải thông tin dựa trên kiến thức và cảm xúc cất trong ký ức. Khi ta ngộ nhận, tưởng mình là những cảm xúc hay tư tưởng kia thì ta đau khổ, buồn, vui, theo sự chỉ huy của cái trí.

  • Đau khổ là bất cứ một cảm xúc nào không phải là hạnh phúc, bất cứ một trạng thái nào không phải là an bình, bất cứ một hành động nào không phải xuất phát từ lòng từ bi. Nó kể cả những cảm xúc và hành động mà chúng ta thông thường không xem là đau khổ như tức giận và trả thù.

  • Trạng thái Tĩnh Lặng thâm sâu có thể làm gián đoạn sự khống chế của cái trí đối với cảm xúc và hành động của chúng ta. Tĩnh Lặng thâm sâu không phải là chỉ dừng ý nghĩ lại thôi mà là sự thinh lặng vắng bặt tự nhiên bên trong ta, cho ta được ở trong một trạng thái bình an, một trạng thái tròn đầy im lìm. Trong trạng thái nầy, những nhu cầu và đòi hỏi do thói quen của cái trí tạo nên sẽ không chạm được đến ta. Và trong trạng thái nầy, chúng ta có thể mang bình yên đến cho thân tâm mình và đem được hòa bình vào đời sống chúng ta.

  • Pháp thiền Tại và Hiện cho ta phương tiện thiền mỗi ngày để vào được sự Tĩnh Lặng thâm sâu. Muốn giải tỏa đau khổ cho ta và cho người chung quanh, ta cần mang được một phần Tĩnh Lặng nầy vào đời sống thường nhật. Trong mọi hành động, cố tập thường xuyên giữ một sự gắn bó âm thầm nào đó với sự Tĩnh Lặng nội tại.

  • Cụ thể nhất là tập lắng nghe và đối đáp trong Tĩnh Lặng. Nghĩa là lắng nghe và trả lời mà trong lòng vắng bặt nhu cầu biện minh, phân tích, phán đoán, giải quyết. Khi cần thiết phải phân tích, giải quyết thì cũng chủ động làm trong Tĩnh Lặng chứ không để cái trí tự động phản ứng theo thói quen.

  • Sự phán xét người khác là một nhu cầu mà cái trí đã tạo nên trong ta. Nhu cầu nầy có tính chất tự làm vững dạ, tự an ủi và tự nâng lên. Nhu cầu nầy thúc đẩy ta diễn đạt trong một hình thức bạo lực có khả năng gây thương tổn cho người chung quanh ta. Vậy thay vì tạm băng bó những vết thương của mình bằng cách tấn công người khác, mình có thể mãi mãi tạo cho mình được sự tròn đầy và hòa bình trong trạng thái Tĩnh Lặng, để không còn bao giờ phải gây đau đớn cho kẻ khác bằng sự phán xét nữa.

  • Tĩnh Lặng không phải là phản nghĩa của Động. Nó cũng không phải là sự bất động trong cuộc đời. Sống cuộc đời trong Tĩnh Lặng có nghĩa là sống mà trong lòng thật sự không còn một chút cưỡng cầu, tranh đấu với cuộc đời và với những tình huống mà ta đối diện. Còn bên ngoài thì ta vẫn hoạt động bình thường, vẫn sống đối mặt với thực tại. Tĩnh Lặng bên trong không có nghĩa là bên ngoài cũng… bất động luôn.

Back to Contents

-21-

Pháp Thiền Tại và Hiện


Châm Ngôn của Tại và Hiện

Sau đây là những câu tâm đắc, có thể áp dụng dễ dàng khi thực tập đời sống Tại và Hiện mà chúng tôi thường gọi đùa là “châm ngôn”:

~ Bạn nào hay nổi cộc hoặc hay cằn nhằn vợ, chồng, con cái; nào là bày đầy nhà, kem đánh răng không chịu bóp từ phía dưới tuýp kem lên, uống nước cam không chịu ngâm ly, v.v. thì sau khi học xong câu châm ngôn nầy chắc chắn sẽ bớt nổi cộc hoặc bớt cằn nhằn ngay:“Không chết, không nói!”

~ Bạn nào trí hay suy diễn, phán đoán, phân tích lung tung, thì khi cái trí vừa nhận được thông tin qua các giác quan, tập dừng lại ngay và bảo cái trí: “Thôi! Đủ rồi!” hay “Chấm Hết!”

~ Bạn nào hay có thói quen áp đặt quan niệm của mình lên người khác, buộc người ta phải theo quy luật và quan niệm của mình thì tập tự nhủ thường xuyên câu nầy: “Sao cũng được mà!”

~Bạn nào mà trí luôn bận rộn lo lắng, than phiền suốt thì có lẽ nên tự nhủ thầmcâu châm ngôn nầy: “Sự việc còn có khả năng tệ hại hơn nhiều!”

~ Chắc bạn nhớ chuyện ông thiền sư Nhật trong Chương Ba chứ? Trong mọi tình huống, xấu hay tốt, ông ấy cũng đều bình thản hỏi “Thế à?” rồi tiếp tục sống một cách bình yên. Nhà sư nầy là một tấm gương cho tất cả chúng ta. Có lẽ từ nay, khi chúng ta đối diện với mỗi một tình huống mà cuộc đời dành cho ta, ta sẽ cố gắng bình thản buột miệng “Thế à?” với một nụ cười trên mặt và một an bình trong tâm vậy.

~ Cám ơn bạn đã chu du một chuyến với chúng tôi. Hy vọng rằng bạn cảm thấy quyển sách nầy có hữu dụng chút nào đó. Chúng tôi xin nhắc nhở rằng mục tiêu của mình là tạo dựng được một Tĩnh Lặng nội tại để có thể tu dưỡng lòng từ bi sâu rộng và một thức giác cao hơn cho bản thân và cho mọi người chung quanh ta. Pháp thiền tại và Hiện chỉ là một trong nhiều phương pháp được dùng để thiết lập sự Tĩnh Lặng nội tại đó. Một khi bạn đã tìm được Tĩnh Lặng trong bản thân (bằng bất cứ phương pháp nào bạn chọn), xin hãy dùng nó để tu dưỡng một tấm lòng từ bi và cảm thông sâu rộng hơn. Chỉ có điều nầy mới có thể tạo nên hạnh phúc lâu bền cho cá nhân bạn cũng như cho toàn thế giới như một nguyên thể.

Cầu xin cho bạn và tất cả chúng sinh tìm được chân hòa bình, an lạc
và cảm thông trong đời!

Back to Contents

-22-

 
 
English  |  Español  |  Français  |  Nederlands  |  Tiếng Việt  |  عر بي  |  עברית  |  中文  |  Русский

 

Ban Biên dịch Tại và Hiện
Email:
sachthien@yahoo.com
Website:
www.TaiVaHien.com
Or: 
www.ThienTaiVaHien.com